Nhiều cá nhân và đoàn thể ở Canada động lòng trắc ẩn trước nghịch cảnh của người Việt lưu vong đã dang rộng vòng tay nhân ái bảo lãnh nhập cư, hay hỗ trợ những người mới đến khắc phục các khó khăn trong cuộc sống buổi ban đầu nơi xứ lạ quê người. Cá nhân Tuất may mắn được một số chuyên gia làm việc tại Lò Thí Nghiệm Nguyên Tử ở tỉnh bang Manitoba bảo lãnh.
Anh Alek, một nhà vật lý học, đại diện cho nhóm đồng nghiệp thiện nguyện thường xuyên liên lạc với nhân viên sờ di trú và hội Hồng Thập Tự, tìm hiều về nhu cầu người tị nạn để có thể thực hiện việc hỗ trợ một cách hữu hiệu hơn. Ngoài ra anh còn cố gắng tìm hiểu về phong tục tập quán người Việt qua các sách báo và tài liệu mà anh lục lọi ra được từ thư viện chánh của thành phố Winnipeg, thủ phủ tỉnh bang Manitoba. Tấm lòng của anh nếu phải đo bằng thước thì chí ít cũng thể hiện được qua đoạn đường dài hơn cả trăm cây số mà anh phải lái xe chạy tới, chạy lui, mỗi cuối tuần. Anh và các đồng nghiệp sinh sống tại Pinawa, còn được gọi là 'thị trấn công ty', được dựng lên ở một nơi hẻo lánh giữa rừng, gần trung tâm nghiên cứu nguyên tử Whiteshell cho nhân viên cư ngụ.
Trong khoảng thời gian chờ đợi Tuất đến Canada anh Alek đã bắt đầu mua sắm sẵn các vật dụng cần thiết cho cuộc sống hằng ngày. Tội cho anh, mải lo là Tuất đến từ một xứ nhiệt đới khó có thể chịu nổi cái lạnh 40 độ dưới zê-rô của Manitoba, nên điều trước tiên anh làm là kiếm mua hai cái mền thiệt dày cho Tuất, và một cái áo parka, loại áo ấm có nón trùm đầu mà người Eskimo mặc để chống cái lạnh cắt da cắt thịt của Bắc Cực.
Một hôm anh Alek đọc được tài liệu nghiên cứu của cơ quan tình báo Mỹ, CIA (Central Intelligence Agency), cho biết người Việt sống được nhờ phần lớn vào nước mắm, một nguồn chất đạm và chất xương quan trọng, vì người Việt không có thói quen uống sữa mỗi ngày. Anh đã vội đến một cửa tiệm người Hoa tìm mua nước mắm, nhưng không thấy bán. Sau một thời gian dò hỏi anh mới biết để tìm tới một tiệm tạp hóa người Phi Luật Tân mua hai chai nước mắm Thái Lan mà anh tâng tiu, trân quý như con đẻ. Ngày hôm sau vào sở làm gặp ai anh cũng lấy hai chai nước mắm ra mân mê khoe với người ta.
Mỗi lần truy cứu được các mẩu tin hay giai thoại lý thú về lịch sử, văn hóa hay phong tục người Việt, anh Alek cũng say mê kể lại cho bạn bè đồng nghiệp nghe trong những buổi ăn trưa trong phòng ăn của công ty. Có lần anh tỏ ra rất bất ngờ và có vẻ không thể nào tin được khi có một tài liệu cho biết người Việt ở đồng bằng không có một điệu vũ dân tộc truyền thống. Các điệu vũ múa ở Việt Nam đều xuất phát từ các cộng đồng người Thượng, sinh sống ở những miền núi rừng cao nguyên.
Anh Alek cũng ngạc nhiên không kém về một kết quả nghiên cứu ngữ học mà có người dùng để suy diễn xa gần về nguồn gốc người Việt. Theo nghiên cứu này thì nguồn gốc người Việt có thể là từ các vùng biển đảo bên ngoài tìm vào đất liền sinh sống. Lý do vì có vài tiếng Việt rất giống tiếng Mã Lai, Nam Dương hay tiếng nói của thổ dân trên các hòn đảo thuộc Polynesia trên Thái Bình Dương. Thí dụ như khi một người Việt chỉ vào một con vật đang bơi lội dưới nước mà gọi là 'Cá', thì người Nam Dương và Mã Lai có thể gọi là 'Ikan', và người Samoa hay dân bản địa Hạ Uy Di có thể gọi là 'I'a'. Sau khi nghe câu chuyện anh Alek kể lại, Tuất không khỏi thắc mắc, ‘Những hiểu biết mới có thể giúp giải thích phần nào truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, cuộc tác hợp giữa Rồng dưới biển và Tiên trên núi chăng? Chẳng hạn như sau khi những người từ các đảo xa xôi trôi dạt vào cửa sông Hồng, thì có người ở lại và cũng có người quay đầu trở về với biển cả.
Nhờ sự quan tâm và hỗ trợ tận tình của anh Alek cùng nhóm bạn thiện nguyện của anh, Tuất đỡ bỡ ngỡ hơn so với các đồng hương cùng cảnh ngộ trong những bước đầu tị nạn. Tuy nhiên trong tinh thần của tiền nhân khai hoang Bắc Mỹ, anh Alek không xa lạ gì với tôn chỉ giúp người bằng cách cho mượn một cây cần câu để họ tự câu cá kiếm ăn, hay nếu cần cho mướn cần câu để phù hợp với tinh thần tư bản hơn, chứ tuyệt nhiên không xách cá tới biếu mỗi ngày. Do vậy mà dù được chăm sóc tận tình vào những ngày mới đặt chân tới xứ người, Tuất vẫn phải tự lo cho tương lai mình như bao nhiêu đồng hương khác.
Trong bước đầu ngỡ ngàng, chưa biết phải làm gì, Tuất để ý quanh mình thấy đa số bà con, dù chỉ được bảo lãnh đến đây trước một hai tuần, đã có công ăn việc làm, mỗi ngày phải bận rộn đi 'kéo cày', nói theo chữ nghĩa đồng hương, thường dùng để bày tỏ nỗi nhọc nhằn của công việc làm nơi đất khách quê người. Nhưng đôi khi ẩn chứa nỗi niềm đắng cay của một nạn nhân trong cuộc đổi đời cay nghiệt, chợt thấy bóng mình lảng vảng trong một bài thơ, một áng văn kinh điển luu ý hậu thế về thế sự thăng trầm, lên voi xuống chó của một kiếp người.
Cuối tuần lại là chuyện khác. Từ chiều Thứ Sáu coi như mọi gánh nặng trên vai được trút bỏ. Bà con cảm thấy thơi thả, tìm đến với nhau, như những cánh én cố dệt nên mùa xuân quê hương, qua men rượu, bên chén nước mắm, cạnh đĩa gà xé phay, hay nồi cháo gà nghi ngút hơi hướng ruộng vườn từ cọng rau râm còn vấn vương trong lòng người tha hương. Các món ăn của người tị nạn có thể thiên biến vạn hóa, nhưng những câu chuyện trao đổi thuở ban đầu, khi vết thương trong lòng còn rỉ máu, thì không ngoài những khắc khoải, trăn trở về hoàn cảnh gia đình và đất nước bỏ lại đằng sau.
Nhiều tranh luận cố lý giải về nguồn cội của những tai trời ách nước đã giáng xuống đầu người trong bao nhiêu năm qua, nhưng gần gũi hơn, nhức nhối hơn, thấu tận lục phủ ngũ tạng của anh em cựu quân nhân hình như chỉ có một đề tài, đúng hơn là một từ, 'Stateless', chữ in rành rành trên chiếu khán mỗi người, mà các anh vì cố ý hay vô tình hiểu là:
'Vô tổ quốc.'
Có thể trên cơ sở pháp lý nhà nước sở tại, vào thời điểm đó, chỉ có thể liệt các anh vào dạng những người không có quốc tịch, nhưng trong lòng các anh nó mang một ý nghĩa mất mát thiêng liêng hơn.
Từ đó dẫn tới câu hỏi đơn giản nhưng có nhiều câu trả lời không giản đơn chút nào, vì vậy khó tìm được sự đồng thuận giữa anh em dù là đồng cảnh ngộ. Đó là, 'Phải chăng chúng ta đã mất nước?' Nói mất thì không hẳn, vì dãy đất Việt Nam hình cong chử S vẫn còn ngự trị bên bờ Thái Bình Dương. Nói còn, sao trong lòng lại thấy mất, một mất mát vô hình, lớn lao, và dù không nói ra nhưng anh em hình như đều ngầm hiểu là vĩnh viễn?
Tuy nhiên những khi nhắc tới thực tế trước mắt, câu chuyện thường chỉ qui về một mối, kiếm đường đi học lại. Năm anh em sĩ quan hải quân trẻ tuổi dự định xin vào trường kỹ sư sau một năm vừa đi làm kiếm cơm vừa trau dồi Anh ngữ. Ba anh sĩ quan không quân độc thân, nhờ đã từng tu nghiệp nhiều tháng tại Hoa Kỳ nên đã bắt đầu ghi danh vào đại học Manitoba. Mấy anh em trao đổi kinh nghiệm về cách thức làm đơn từ, ghi danh, và chuẩn bị những hồ sơ cần thiết. Hồ sơ cá nhân là một trở ngại lớn vì không ai mang theo nhiều chứng từ bằng cấp hay chứng cứ nào khác về quá trình học tập của mình.
Những lúc ngồi nghe mấy anh, đa số độc thân nhưng cũng không thiếu người đã lập gia đình với con cái đầy đàn, bày tỏ ước vọng được tiếp tục việc học hành tại Canada, Tuất cũng cảm thấy nôn nóng muốn tiếp tục việc học dở dang của mình, và không khỏi cảm thấy ân hận đã bất chấp lời dạy bảo của cha mẹ từ thuở nhỏ, mà giờ đây nhớ lại còn nghe văng vẳng bên tai:
Rừng ‘nhu’ biển thánh khôn dò,
Nhỏ mà không học lớn mò sao ra.
Mấy tuần nay, trong khi chờ đợi được vào làm thợ máy tại ga-ra một cửa tiệm bán đồ phụ tùng xe nổi tiếng, Tuất đi làm tạm nghề bắt trùng (giun), tại một trại nuôi trùng làm mồi câu cá ở tận ngoại ô thành phố. Cái nghề tuy nghe lạ, ở quê nhà có ai nuôi trùng đâu mà phải mướn người bắt, bỏ hộp, đem cân ký bán, nhưng vẫn chưa lạ bằng một điều Tuất chứng kiến tại nông trại của người chủ.
Ngoài việc nuôi trùng ông chủ nông trại còn nuôi mấy con bò sữa. Trong số đó có một con bò mới mua cho sữa ngày càng ít, nên ông đã mời một vị thú ý tới chẩn bịnh. Tuất, bản thân từng là mục đồng, ban ngày chăn trâu, ban đêm hông khói đuổi muỗi cho trâu, nhưng chưa nghe nói tới bác sĩ chữa bịnh cho trâu bò bao giờ. Lần này, vào giờ nghỉ ăn trưa, Tuất với bản tánh tò mò cố hữu không thể bỏ qua cơ hội đến xem, coi bác sĩ trị bịnh cho bò như thế nào.
Tuất há hốc mồm ngạc nhiên khi thấy chuyện đầu tiên ông bác sĩ, cũng mặc áo thụng trắng đàng hoàng như các bác sĩ cho người ta, rà tới rà lui cái la bàn quanh bụng con bò. Rồi ông bác sĩ và ông chủ nông trại trao đổi với nhau những gì Tuất không hiểu. Đa số các nhân công hiếu kỳ khác đứng xung quanh cũng không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Sau cùng Tuất tìm được một anh bạn trẻ sống ở nông trại kế bên có thể giải thích mọi ngọn ngành.
Té ra, trong khi bò ăn cỏ chúng có thể nuốt mấy mảnh kim loại rơi rớt trong nông trại, như đinh hay mấy khúc vụn vặt của dây hàng rào kẽm gay. Những vật nhọn này khi bị di chuyển qua hệ tiêu hóa có thể gây thương tích, làm cho con vật đau đớn khó chịu, và dẫn đến triệu chứng bị mất sữa. Vì vậy các chủ trại thường cho bò nuốt vào bao tử một thỏi nam châm lớn cỡ ngón tay trỏ, để thu hút các vật thể kim loại nếu có và giữ chúng lại trong bao tử. Chuyện ông bác sĩ thú y rà cái la bàn bên ngoài bụng con bò, là để xem trong bụng nó đã có thứ thỏi nam châm trị liệu đó hay không. Nếu la bàn bị chệch hướng, ắt bên trong có nam châm. Thiệt là đi một ngày đàng học một sàng khôn, Tuất nhớ câu ông nội Tuất lúc sống thường nói.
Kể từ ngày hôm qua, sau khi nghe tin nhân viên sở di trú đã tìm được việc làm đúng nghề cho mình, Tuất hết sức háo hức chờ đợi, vì nghe đâu đồng lương thợ máy sẽ cao hơn nhiều so với mức lương hiện tại của Tuất. Việc làm bắt trùng tạm bợ chỉ được trả 2 đồng 25 xu một giờ, dù Tuất cảm thấy đã quá đủ để trang trải mọi chi phí, từ tiền ăn, tiền mướn phòng tới tiền xe buýt. Đồng lương thợ máy, dù trong giai đoạn học nghề, nghe đâu gần gấp đôi số lương của Tuất hiện tại. 'Tha hồ mà mua quà gởi về gia đình,' Tuấn nghĩ. Dù chưa liên lạc được với người thân ở quê nhà nhưng Tuất không lúc nào ngừng mơ ước mua sắm quà cáp cho từng người. Mỗi lần có dịp đi mua sắm hay đến các cửa hàng thấy cái gì lạ mắt, mà gần như những gì Tuất thấy ở quanh mình đều xa lạ và thú vị, Tuất mơ ước có thể gởi về cho mẹ, cho cha, cho bà ngoại. Nó có thể là cái khăn bàng lông trắng toát dày cộm cho má, cái hộp quẹt máy Zippo bóng loáng cho ba, hay những gói trà sâm và những hộp thuốc bổ biến chế từ sâm Cao Ly cho ngoại.
Mỗi ngày hai lượt đi về Tuất phải thay xe buýt ở trạm cuối trên con đường chính của thành phố, ngay phía trước một tiệm kim hoàn. Lắm lúc trong khi chờ xe, đôi chân như con chó nhỏ dẫn đường, lôi kéo con tim mù lòa đến trước cửa tiệm, Tuất thẩn thờ đứng dán mắt trên khung kíếng, thả hồn theo những hạt kim cương lấp lánh đang thắp sáng những vì sao trên trời, bên trên giàn mướp hương mới ngày nào mà tưởng chừng cả thế kỷ đã trôi qua. Bên cái cối xay, mái tóc đen huyền bay bay, cái vén tóc vẫn dịu dàng, kiêu sa, kín đáo như ngày nào, để hé lộ một vành tai chợt ẩn, chợt hiện, khi thì như thách thức, lúc như chờ đợi được trang điểm bằng châu, bằng ngọc. Đôi bông tai kia, chiếc nhẫn nọ chưng bày trong tủ kính Tuất cũng muốn được sở hữu, nhưng để làm gì. Nào ai biết, chẳng ai hỏi.
Hôm nay thứ Bảy, như mọi thứ Bảy khác, là ngày vui và đầy bất ngờ thú vị mà Tuất mong đợi suốt tuần. Từ thứ Sáu cảm giác hân hoan yêu đời đã bắt đầu dấy lên trong lòng, nhưng phải chờ tới lúc tan sở, sau 5 giờ chiều, chân bước ra khỏi hãng lòng mới nhẹ nhõm, thân mới như cái bong bóng sau cái hớ hênh buông tay của trẻ con, chợt bay vụt lên giữa bầu trời xanh thẳm, dù trời đang mây, đang mưa, đang lạnh, đang tuyết. Mặc trời.
Lòng Tuất phơi phới, tim Tuất rộn rã, và như chú chim sổ lồng chỉ muốn vỗ cánh bay xa, thật xa, cho tới khi mỏi cánh đáp xuống kiếm ăn, thỏa mãn đòi hỏi căn bản của bản năng. Ăn gì, ăn ở đâu, ăn bao lâu, đều tùy ở Tuất. Đói quá thì chơi nguyên cái Tiềm thủy đĩnh (bánh mì dồn thịt Submarine sandwich). Tiệm nằm trên đường cái, dập dìu tài tử giai nhân. Tuất có thể vừa gặm bánh mì vừa ngắm dòng người chen chúc, hối hả, tất bật đi lại trên đường phố. Họ đang đi đâu và sẽ về đâu, Tuất không thể mường tượng được, nhưng sự hiện diện của họ đã giúp Tuất cảm thấy vững bụng hơn, là trong thế giới này không chỉ có một mình ta.
Bữa nào ham rẻ, thì đến Mắc Đổ Nợ, quán bán thức ăn nhanh hiệu McDonald. Thật ra quán không mắc chút nào. Một bữa ăn bánh thịt bò xay, uống Coca-Cola như ai vẫn có thể gói ghém trong vòng một đồng bạc lẻ. Còn muốn chơi sang hơn thì tới quán Ông già đầu bạc (Colonel Sanders, Kentucky Fried Chicken) làm một hộp gà chiên. Ngồi mút cánh gà, quá giang hơi hướng của hương vị na ná Á đông mà tìm về miền quê cha đất tổ. Thực tế hơn thì ăn ở đây cũng tiện việc, vì tiệm nằm kế bên siêu thị, ăn xong chỉ cần bước vài bước đi chợ mua thức ăn cho tuần lễ tới.
Những người có gia đình thì thường đi chợ vào sáng thứ Bảy, nhưng Tuất muốn dành trọn ngày thứ Bảy free, rảnh rỗi, để ai kêu đi đâu Tuất tháp tùng theo đó. Đi nhậu, đi câu cá, đi công viên, hay đi chơi xa viếng thắng cảnh Tuất đều chưa bao giờ từ chối, và kinh nghiệm cho thấy Tuất cũng chưa bao giờ phải thất vọng. Bởi vì, cả tuần có khi không được nghe tiếng Việt, không nói tiếng Việt, buồn thấy mồ, nên miễn gặp được bà con mình bù lu bà la là thấy vui rồi.
Thứ Bảy này sao chờ hoài không thấy điện thoại reo rủ đi chơi. Sáng nay Tuất dậy sớm đem hai giỏ quần áo dơ để dồn suốt ba tuần qua đến tiệm giặt, nên đang thắc mắc không biết có hụt cú phôn nào trong lúc mình đi vắng không. Thật ra Tuất không tiếc rẻ lắm, vì chiều nay đã hẹn đến nhà Ramon ăn tiệc, mà chẳng biết tiệc gì. Anh ta chỉ nói là 'tiệc ngạc nhiên'. Dù sao thì cũng cần có một bộ quần áo tươm tất để đến dự tiệc với người ta, Tuất nghĩ.
Tuất vừa ủi xong một bộ quần áo ưng ý nhứt: cái quần jean do hội nhà thờ cho, dù tương đối mới nhưng có hơi rộng, và cái áo sơ mi tay dài màu hồng. Tuất rất thích cái áo này không chỉ vì là lần đầu được khoác lên người một cái màu khác hơn màu trắng đơn điệu, nhàm chán, một di sản của thời thuộc địa mà xã hội còn bám lấy để thể hiện thứ mẫu mực của đứng đắn, hay sang cả. Tuất cảm thấy màu tươi tắn của áo làm toát lên vẻ yêu đời thích hợp với tâm trạng lâng lâng trong lòng Tuất vào dịp cuối tuần.
Tuất dự định sẵn tay ủi hết đống quần áo mới giặt, chợt nghe tiếng gõ cửa bên ngoài. Tuất chưa kịp để bàn ủi xuống đã nghe tiếng anh Long gọi:
- Tuất, lên nhậu!
Tuất lính quýnh vật lộn với đôi dép da quá khổ cũng do hội nhà thờ mới cho, lẹp bẹp kéo đến mở cửa phòng. Anh Long đã trở lên tới từng lầu bên trên, chồm qua tay vịn cầu thang nói vọng xuống:
- Nhớ đem theo chén nha Tuất.
Bốn anh em hải quân ở lầu trên chỉ sắm đủ mỗi người một cái chén ăn cơm, và hai chén đựng nước mắm và các gia vị xài chung khác. Tuất đang phân vân chưa biết phải trả lời thế nào. Chiều hôm qua đi làm về, Tuất gặp anh Ramon, đứng hút thuốc trước cửa nhà, coi chừng con trai anh chơi trượt ba-te trên thềm xi măng bên lề đường với mấy đứa con nít khác. Anh Ramon đã kêu Tuất lại niềm nở căn dặn bữa nay đến dự tiệc với gia đình anh, và Tuất đã vui vẻ nhận lời. Nhưng ăn uống với người ngoài, dù là một người Phi hiếu khách như anh Ramon, làm sao bằng một buổi gặp gỡ giữa anh em mình với nhau, Tuất nghĩ, huống chi anh em mình lại có nhậu nữa.
Tuất còn đang phân vân chưa kịp đáp lời anh Minh, đã nghe tiếng chân người từ lầu hai ở phía dưới rầm rập chạy lên. Anh Nhân nhìn thấy Tuất đứng tần ngần trước cửa phòng, bèn nắm tay lôi đi,
- Đi nhậu mà hổng đi, đi đâu bây giờ mậy.
Để tránh phụ lòng anh Nhân, Tuất xin phép chạy vội vào bên trong lấy chén, rồi nối gót lên phòng bốn anh hải quân.
Khổ chủ chưa mở cửa, mùi cà-ri nực nồng đã lan tỏa ra khắp không gian bên ngoài, ôm chầm lấy đồng hương, bốc lên mây, bay theo gió, cuốn về tận một bữa ăn đám giỗ ở quê nhà. Bước vào thực tại bên trong là một phòng khách trống trơn ngoài mấy mảnh giấy báo trải sẵn trên sàn gỗ làm mâm ăn dã chiến. Quốc từ nhà bếp khệ nệ bưng nồi cà-ri ra, cẩn thận đặt trên một xấp giấy nhựt trình dày cộm để ở giữa phòng, để bảo vệ sàn nhà khỏi bị nám đen, như đã xảy ra vài tuần trước khiến chủ nhà phải quở.
Giấy báo nhựt trình ở đây trung bình có hơn 40 trang mỗi ngày, tha hồ mà xài. Chẳng bì với Việt Nam, mỗi tờ báo lúc đầu chỉ cần 4 trang đã đủ phục vụ mọi tầng lớp quần chúng. Người nhàn rỗi muốn biết chuyện xảy ra quanh mình có thể theo dõi các tin tức trên trang đầu. Trí thức có thể tìm đến lá thư chủ nhiệm hay chủ bút, xem bình luận hay phiếm luận chuyện thời sự lẫn thế sự, để suy ngẫm hay cười lộn ruột về ba cái trò hề sân khấu cuộc đời, dù lắm khi là cười ra nước mắt, như đã từng chảy đầy 'Ao thả vịt' của nhà báo Chu Tử. Con nít có thể tìm đến cột truyện bằng tranh ở trang ba, coi Tề Thiên múa thiết bảng đại náo thiên đình hay quậy phá thủy cung. Con nít lớn hơn có thể miên man đi bụi đời với 'Loan mắt nhung' của Duyên Anh, hay tò mò liếc xuống cuối trang để học hỏi những chuyện dưới lưng quần trong các tiểu thuyết phơi-ơ-tông kiểu 'Vợ Thầy Hương' của Lê Xuyên. Mấy bà mấy cô dù có, hay không, những nỗi niềm cần người nhỏ to tâm sự cũng có thể tìm đến các cột báo như 'Gỡ rối tơ lòng' của Bà Tùng Long. Các đấng mày râu có chút hứng thú với chuyện tâm lý, xã hội, tình cảm lâm ly cũng tìm tới những mục gỡ rối tơ lòng để đọc, nhưng thường là đọc lén, kẻo bị chê ủy mị, thiếu cứng rắn!
Anh em ngồi bẹp xuống sàn gỗ, anh Long khui chai la-de rót mời khách. Anh Nhân khen:
- Cà-ri cánh gà mà còn có bia nữa, thiệt hết chỗ chê.
Từ khi đồng hương biết được cái ngón khuyến mãi cánh gà của ông chủ người Ý, thì không buổi nhậu nào thiếu món cánh gà, từ cánh gà nướng, tới cánh gà chiên bơ; hay ngay cả cánh gà luộc, và dĩ nhiên còn có cánh gà cà-ri. Tuy nhiên lần này anh Quốc bất ngờ đính chánh:
- Còn có một thứ cà-ri khác không thua gì cánh gà đâu anh Nhân ơi.
Anh Nhân châu mày thắc mắc. Anh Minh cười hề hề, nâng ly bia lên giục:
- Mình vô trước đi. Cà ri gì để hạ hồi phân giải.
Quốc sớt cà-ri ra hai chén mời khách. Anh Phúc với qua đưa thêm hai khoanh bánh mì. Anh Nhân xuýt xoa:
- Chà, có bánh mì Tây nữa hả. Đúng điệu à nha.
Anh Phúc trưa nay đã phải mất hơn cả tiếng đồng hồ đi về hai lượt xe buýt mỗi bận, tới khu phố Saint Bonniface kế bên của cộng đồng người gốc Pháp, để mua cho bằng được hai ổ bánh mì Tây. Không biết vì anh thèm món ăn sáng của mình mỗi ngày lúc nhỏ, hay vì sau khi trải qua cơn phong ba trốc gốc trốc rễ cỏ cây, anh đang cố bám víu vào những thứ quen thuộc hiếm hoi, dù nhỏ nhoi tới đâu còn có thể tìm thấy được quanh mình.
Anh Nhân xé miếng bánh mì chấm nước sốt cà-ri, đưa vào miệng nếm thử. Anh nhướng mày nhìn lên trần một đỗi, cố vận dụng hết các giác quan trời cho để đoán xem đó là cà-ri gì.
- Chà coi bộ có mùi thịt rừng à nha.
Bốn anh em hải quân cười rộ lên. Anh Minh khen:
- Đại ca hay quá.
Anh Phúc giải thích,
- Cà-ri nhím của thằng Quốc đó. Anh thử một miếng coi sao.
Món độc chiêu này họa hoằn mới có, chỉ khi nào anh em lái xe ra ngoại ô tình cờ tông phải một con nhím vô phúc, và trên xe lại tình cờ có một anh binh nhì với sở trường chế biến thức ăn đột xuất cho đồng đội vào những lúc đóng quân nơi đèo heo hút gió, dù là trên núi cao hay trong chốn rừng sâu. Chiều hôm qua những ngẫu nhiên này đã đến với thầy trò anh sĩ quan thiết giáp ở nhà kế bên, và sau khi làm thịt con mồi đã chia cho anh em hải quân một nửa.
Quốc bưng chén cà-ri nhím lên cười cười nói:
- Mình ăn kiểu này chắc người Canada thấy cũng chạy luôn.
Anh Phúc phản đối,
- Chưa chắc đâu nha. Tôi đọc báo thấy bên Mỹ có người còn ăn trùng (giun) nữa đó.
- Thiệt không cha nội?
- Sao không thiệt. Tôi còn nhớ như in, tấm hình trên tờ báo Time cho thấy một thanh niên Mỹ ngồi trước một đĩa trùng (giun), trông giống như đĩa mì sợi spaghetti của người Ý vậy. Anh ta ngước mặt háo hức đưa một nĩa lủng lẳng đầy trùng vào miệng.
- Thêm thằng khùng muốn làm nổi hả?
- Không phải. Đó là một bản tin khoa học, kể lại chuyện một khoa học gia thực phẩm, qua nghiên cứu cho thấy cơ thể trùng chứa nhiều chất đạm (protein), nên đã chế ra món ăn xà lách trùng chơi vậy đó.
Quốc lắc đầu,
- Người Mỹ thực tế và đầu óc khoa học quá. Nói gì thì nói người mình ai dám ăn. Nội nghĩ tới thôi đã thấy gớm.
Anh Phúc tiếp,
- Nói đâu xa, ngay ở Winnipeg này còn có người ăn phân bò nữa đó mấy cha ơi.
- Thiệt hả?
- Ừ, chính mắt tôi thấy.
Anh Phúc kể lại lần đến viếng đại học Manitoba nhân dịp 'Open House', ngày trường mở cửa đón khách trong cộng đồng đến tham quan. Lúc đến thăm phân khoa Khoa học Thực phẩm, anh tình cờ chứng kiến một vị giáo sư đang giới thiệu mấy mẩu ‘bánh’, trông giống bánh in, lớn cỡ lòng bàn tay, màu trắng đục, mà ông cho biết vừa được biến chế từ … phân bò. Trước những cặp mắt kinh ngạc của quan khách ông đưa một miếng ‘bánh’ phân bò thẳng vào miệng, cắn ra một mảnh nhỏ chút xíu, nhai nhai rồi … nuốt ực.
Quốc lắc đầu,
- Họ không thấy tởm sao ta.
- Cũng không hẳn vậy. Tôi thấy khách tham quan hôm đó từ người lớn tới con nít đều bày tỏ thái độ khó chịu. Người thì bụm miệng, kẻ cắn chặt hai hàm răng lắc đầu thoái thác như chính họ bị bắt phải nếm vậy.
Anh Long thắc mắc,
- Sao tới nay mình chưa thấy món bánh ác ôn đó bày bán ngoài chợ vậy?
Anh Phúc để chén cà-ri xuống giải thích,
- Mấy thứ đó đều còn trong giai đoạn nghiên cứu. Nhiều khi không dẫn tới kết quả cụ thể nào. Điều đáng nói là người ta có thì giờ nghiên cứu, thí nghiệm, tìm tòi học hỏi cái mới cái lạ. Có thể các nghiên cứu như vậy sẽ đem đến một lợi ích thiết thực nào đó và cũng có thể không.
- Hay thiệt chứ, tại vì dù hôm nay không ứng dụng được, nhưng vài trăm năm sau khi người ta ngày càng đông và đất đai trồng trọt ngày càng ít, thì chưa biết sao?
Anh Minh tu một ngụm bia, bâng quơ nói:
- Chuyến đi lên trường lần đó cũng làm cho tôi mở mắt phần nào, thấy ở xứ sở thanh bình người ta làm được nhiều việc quá.
Anh Quốc hỏi,
- Bộ họ còn chế biến thức ăn gì độc đáo nữa hả anh?
- Không phải vậy, chuyện tôi muốn nói hơi ngoài đề một chút.
Minh trao khoanh bánh mì mời anh Nhân, trước khi nói tiếp:
- Lần đó, tôi đến thăm trường Kỹ Sư, tại vì mấy đứa dự định ghi danh học lại ngành này. Mình đảo một vòng quanh bin-đinh của trường Kỹ Sư Cơ Khí, như đi xem triển lãm vậy. Chỗ nào có trưng bày áp-phích hay dụng cụ, máy móc gì đó, thì mình dừng lại nghe các sinh viên hay giáo sư trình bày về những chương trình nghiên cứu của họ. Chỉ ghé qua vài nơi là mình đã thấy hết hồn. Toàn là những chương trình nghiên cứu không tưởng.
Anh Nhân ngạc nhiên,
- Ghê vậy hả.
- Thật ra có thể nó chỉ lạ đối với mình thôi, chứ không lạ đối với thế giới bên ngoài đâu.
- Anh có thể kể lại nghe coi họ đã phát minh được những gì.
Minh đặt ly bia xuống sàn,
- Theo tôi biết thì họ giới thiệu những chương trình đang nghiên cứu của trường, chứ không hẳn là những phát minh hay sáng chế gì. Có thể nó sẽ không đi tới đâu cũng không chừng. Tôi còn nhớ triển lãm đông người xem nhứt là về kỹ thuật tạo ảnh ba chiều. Các sinh viên có thể điều khiển những tia laser thế nào đó để phóng lên hình ảnh một cái ghế 4 chân, y hệt như thiệt, lơ lửng trong không gian trước mặt mình. Mình có cảm tưởng như có thể sờ được vậy.
Anh Nhân gục gặc đầu thán phục,
- Hay quá hả, mà để làm gì vậy ta.
- Tui cũng không biết, nhưng họ còn có mấy công trình nghiên cứu rất thực tế khác, như có một sinh viên ngoại quốc người Nhựt đang nghiên cứu về cách xây cất nhà trên mặt nước.
- Chi vậy ta?
- Thì anh biết đó, nước Nhựt đông dân mà ít đất, nên họ tìm cách lấn ra biển. Họ muốn xây nhà ngoài khơi, dọc theo bờ biển chẳng hạn. Nhưng mà hay ở chỗ là, họ còn muốn lợi dụng việc thủy triều lên xuống mỗi ngày, và sóng vỗ liên tục bên nền nhà, để biến thành lực chạy máy điện cho mấy căn nhà này.
- Hay quá vậy ta.
Minh nói thêm,
- Còn nhiều cái mình chưa nghe nói tới bao giờ, như trong chương trình hợp tác với một đại học bên Thái Lan, họ tìm cách ép trấu với vỏ dừa khô để làm mấy thỏi nhiên liệu thay thế than.
Quốc khen,
- Cái này hay à nha! Vỏ trấu với vỏ dừa bên mình thiếu gì. Thay vì vất bỏ, nếu có thể biến thành than để dùng như nhiên liệu nấu nướng thì tốt biết mấy.
- Đó là điều tôi muốn nói, đất nước người ta nhờ thái bình nên làm được nhiều việc. Thử hỏi trong lúc người ta làm những việc nghiên cứu này, tụi mình làm gì. Đi lính, đánh trận. Dĩ nhiên là vì lý tưởng, nhưng sao khổ thế. Hết trận này tới trận khác. Đất nước gì mà chiến tranh triền miên, từ đời này qua đời khác. Kể sơ sơ cũng thấy, hết thời Trịnh Nguyễn phân tranh, tới chiến tranh chống Pháp, rồi cuộc chiến ý thức hệ.
Long nhìn Minh gật gù,
- Ờ, thiệt đáng nể những bước tiến trong mọi mặt của xứ sở người ta. Người ta đã giành nhiều thời gian trau dồi học thuật, nhìn xa trông rộng, lo chuyện tương lai, không chỉ cho một hai thế hệ mà có khi là hàng thế kỷ trước. Như đã từ lâu cảnh báo nhân loại về nạn nhân mãn, về việc thiếu đất trồng trọt, khan hiếm nguồn nước ngọt trên quả địa cầu, vân vân. Ngay cả những giải pháp họ nghĩ tới cũng có vẻ không tưởng, như bắt đầu hướng ra không trung, nhắm tới các vệ tinh, các hành tinh khác để tìm nguồn nước hay nguồn năng lượng mới.
Phúc nhìn ra bên ngoài khung cửa sổ, tìm về dĩ vãng,
- Nhắc lại khiến tôi nhớ tới mấy câu trong bài hát Đi Tìm Quê Hương của Trịnh Công Sơn: Ɲgười nô lệ da vàng ngủ quên / ngủ quên trong căn nhà nhỏ / đèn thắp thì mờ….
Long gật gù,
- Thiệt tình!
Tuất mê nghe mấy anh nói chuyện, nhưng ăn xong chén cà-ri, bất đắc dĩ phải xin phép cáo từ để xuống căn hộ của Ramon dự tiệc.
Quốc tỏ vẻ tiếc rẻ cho Tuất:
- Còn nồi canh chua cánh gà nữa đó. Ở lại ăn xong rồi đi.
Minh nói gần nói xa:
- Trời ơi nhằm nhòi gì ba cái lẻ tẻ đó. Người ta có thứ khác ngon gấp trăm lần đang chờ ở dưới lầu.
Quốc tình thiệt,
- Biết rồi, nhưng mà đi đâu tìm được món quê hương chứ.
Anh Long giải thích với anh Quốc:
- Đâu phải chuyện ăn uống gì. Tụi nó muốn nói về chuyện cô cháu gái của anh Ramon đó.
Anh Quốc tò mò:
- Ủa vậy sao, chuyện này chưa nghe à nha.
Anh Long tiếp,
- Thì tôi cũng mới nghe thằng Minh nói hôm qua. Gia đình Ramon có cô cháu làm thợ may, mới đến Canada mấy tuần trước theo diện công nhân đi lao động.
Quốc hiểu ý:
- Té ra vậy. Hắn muốn gả cháu gái cho thằng Tuất, để cô ta được định cư ở đây.
Tuất sượng sùng gạt lời Quốc, 'Làm gì có chuyện đó anh.' nhưng trong lòng thoáng ngờ vực, 'Hèn chi hôm qua gặp mình Ramon vồn vã hơn mọi khi'. Tuất lại xua ngay ý nghĩ đó, vì cảm thấy trước giờ Ramon luôn tử tế và tận tình giúp đỡ người Việt.
Minh hớp một ngụm rượu, nhìn ra bên ngoài cửa sổ, thì thầm:
- Đời là vậy. Người cầu không được, kẻ không cầu lại được.
Phúc biết Minh đang than thân trách phận. Trong khi nhiều người như cô cháu anh Ramon cầu đến xứ này lập nghiệp, mà không dễ thực hiện, còn anh và các đồng đội không ai biết trước cái kết cục bất ngờ đã đưa đẩy họ đến chỗ phải dung thân nơi đất khách quê người. Phúc, bạn thân của Minh, lo ngại chứng trầm cảm của anh bộc phát lại, vì hôm nay thấy Minh không cữ rượu theo lời căn dặn của bác sĩ. Phúc cố ý pha trò:
- Nghe nói cô ta đẹp lắm đó Tuất ơi.
Lối sống tất bật biến người ta thành những con thoi chạy tới chạy lui, giữa một bên là nhà ở và bên kia là nơi làm việc, nên láng giềng dù sống trong cùng chung cư cũng ít khi gặp mặt nhau. Tuất chưa có dịp biết cô cháu của anh Ramon, nhưng lời tán dương của anh Phúc, dù có vẻ nửa đùa nửa thật, vẫn khiến Tuất cảm thấy rộn ràng trong lòng, và hăm hở mong đợi buổi cơm chiều lý thú tại nhà Ramon.
Tuất vừa ra khỏi cửa, Minh chuyển đề tài, nhìn ra ngoài trời than:
- Không biết chừng nào mới liên lạc được với gia đình.
Anh Nhân lắc đầu:
- Chắc còn lâu.
- Anh nghĩ vậy sao?
- Nếu họ theo con đường của Nga với Tàu trước đây thì chắc còn lâu mình mới liên lạc được với trong nước. Như Mao Trạch Đông hồi 1949, sau khi Tưởng Giới Thạch rút quân ra Đài Loan, họ Mao lập tức bế quan tỏa cảng Trung Hoa lục địa. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Tính ra từ đó tới nay cũng hai mươi mấy năm rồi còn gì.
Anh Phúc xen vào,
- Nhưng mấy năm gần đây thấy Mao cũng rục rịch muốn bắt tay với Mỹ, chống trả Nga.
Anh Nhân gật gù tư lự, trước khi nói tiếp:
- Ừ, nhưng không biết họ mở cửa tới đâu đây. Chắc cũng chỉ mở he hé để gạt mấy thằng Mỹ, rồi đâu lại vào đấy.
Anh Nhân bật quẹt đốt thuốc, rít một hơi,
- Còn Việt Nam mình không biết sao, nhưng hy vọng nếu họ quyết định mở cửa thì sẽ không ngại bắt tay với Canada, vì xứ này tương đối trung lập.
Anh Phúc tiếp lời,
- Bởi vậy hồi còn ở trong trại Pendleton, có người biết Canada lạnh lẽo mà vẫn chọn qua đây vì tính chuyện đường dài. Họ lo là nếu ở lại Mỹ sẽ bị triệt đường về Việt Nam.
Anh Minh lắc đầu ngao ngán,
- Bỏ mẹ rồi! Mình có thể trở thành những đứa con vô tổ quốc thiệt.
- Đất nước mình còn đó, quê hương mình còn đó, chứ có biến mất đâu.
Anh Phúc nhếch mép cười, giở ngón tếu cố hữu:
- Nếu sợ mất nước, mình cứ tìm lại mấy quyển truyện Kiều đọc là xong. Hồi tu nghiệp bên Mỹ tôi thấy thư viện đại học của họ chứa đầy sách văn chương, lịch sử Việt nam.
Anh em trố mắt nhìn Phúc chờ đợi một lời giải thích. Anh Phúc hớp một ngụm bia, nói tiếp:
- Mấy ông không nhớ Phạm Quỳnh nói gì sao.
Long nhanh nhảu hỏi:
- Ổng nói gì vậy anh.
Anh Phúc rít một hơi thuốc, quăng nửa con mắt về hướng Long:
- Học giả Phạm Quỳnh rất mê truyện Kiều. Thật ra còn hơn mê nữa. Ông đánh giá truyện Kiều là quốc hồn quốc túy của nước ta. Câu nói để đời của ông là: 'Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, …!'
Long bật cười ha hả:
- Ý anh là ngày nào mình còn đọc truyện Kiều là ngày đó đất nước còn?
- Đại khái vậy. Ít ra là còn trong lòng mình.
- Đành rằng tiếng nói của một dân tộc là quan trọng, nhưng còn màu cờ sắc áo thì sao.
- Cái đó là một phần đời của mình … là cả tuổi trẻ của mình rồi. Chắc không mất đi đâu được.
- Sẽ ở mãi trong lòng thôi.
Minh đứng dậy,
- Thôi đó là chuyện tương lai. Tối nay thì sao, làm gì đây.
- Tối nay đi Lockport câu cá mấy ông ơi!
Đập nước Lockport nằm cách thành phố khoảng 30 cây số về hướng bắc, là tụ điểm yêu thích của di dân mới tới, vì có trò giải trí rẻ tiền. Câu cá. Bữa nào tổ đãi bắt được nhiều cá vược, như Perch hay Bass, mà đồng hương gọi là cá rô và cá chép, thì còn đỡ tiền chợ được mấy ngày.
#
Tuất sau khi về phòng mình đã tắm rửa và đóng lên bộ quần áo 'mới người cũ ta' ủi sẵn từ sáng. Tuất đứng săm soi cả buổi trước tấm kiếng trong phòng tắm, rảo mắt quan sát hàng nút bạc trắng chiếu sáng ngời trước ngực, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, xong lại quay người sang một bên, liếc mắt nhìn về phía sau lưng tìm hai lằn xếp-li thẳng tấp chạy dọc theo cột sống. Càng ngắm, Tuất càng cảm thấy hài lòng với chiếc áo sơ-mi có vẻ đắt tiền.
Màu hồng của áo thổi bùng lên tâm trạng lâng lâng yêu đời sẵn có trong lòng Tuất vào một ngày cuối tuần, dù có hay không lời khen cô cháu gái của anh Ramon đẹp vẫn còn văng vẳng bên tai. Tuất xoa lên đầu miếng dầu xức tóc, chải tới, chải lui, năm lần bảy lượt cho tới khi hai cái lưỡi bò ương ngạnh hết bung lên ở phía sau vành tai, và cho tới khi toàn bộ mái tóc nằm sát rạt, mướt rượt, láng bóng đến độ con ruồi đậu phải chống gậy mới thôi.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, mới đó mà đã quá giờ hẹn với Ramon, Tuất vội vã xuống lầu dự tiệc. Ramon đon đả đón khách, đưa Tuất thẳng đến bên bàn ăn, đã bày đầy chén đĩa, ly tách. Chị Ramon, tên thật là Mary nhưng người Việt tị nạn quen gọi theo tên chồng của chị, khệ nệ bưng thố bò kho từ trong bếp ra đặt giữa bàn. Anh Ramon cố tình nhờ vợ nấu theo đúng công thức anh học được từ gia đình một người Việt anh kết thân trong thời gian công tác tại Việt Nam. Đối với anh đó là món đặc sản nhớ đời của người Việt mà anh tin chắc sẽ khiến Tuất cảm kích.
Ramon đoán đúng. Tuất trố mắt nhìn mấy miếng thịt gân đượm mỡ áo trong nước sốt cà đỏ au như người vừa tìm lại được bảo vật đã mất từ lâu, ít ra là từ những ngày phải sống trong các ba-rắc hay các lều dựng lên tạm bợ trong các trại lính Mỹ dành cho người tị nạn, và ăn các món ăn nhạt nhẽo, lạ lẫm, không hợp khẩu vị nước mắm nhĩ chút nào, ngoại trừ món 'cháo' (Oatmeal, bột yến mạch) mà nhiều người chờ đợi mỗi sáng để tìm lại chút hơi hướng quen thuộc nào đó. Được voi đòi tiên, Tuất chợt ước gì trong nhà anh Ramon còn có một cây ớt hiểm.
Lần sau cùng Tuất được thưởng thức món bò kho là dịp đi theo Chú Bảy ‘đờ Song’ lên Dầu Giây sửa máy xay lúa cho gia đình ông Hai Sang. Sẵn ngày cuối tuần, con cái nghỉ học ở nhà, ông Hai Sang đưa cả gia đình theo để ghé qua thăm vườn trái cây của ông ở gần đó. Từ hướng Sài Gòn lên, vừa qua khỏi đồn điền cao su của người Pháp hồi xưa, tới bìa rừng là có thể thấy mấy ngọn mít, ngọn sầu riêng xanh um trong vườn của ông Hai Sang, nằm cách quốc lộ không xa. Phía sau vườn có một dòng suối cạn chảy ngang, là ranh chia giữa năm mẩu đất của ông Hai Sang và chốn rừng thẳm bên trong, nơi thỉnh thoảng có bóng dáng người dân tộc lướt đi thoăn thoắt giữa lòng suối trên mấy hòn đá lớn nhỏ, trước khi biến mất sau đám cây cối rậm rạp.
Tới giờ cơm trưa người nhà ông Hai Sang trải hai cái poncho lên cỏ bên cạnh nồi bò kho với rổ bánh mì. Gia đình ông Hai Sang cùng thầy trò Tuất xúm lại ngồi ăn dưới bóng mát của hai cây mít hai bên. Theo kinh nghiệm của những lần trước đến đây sửa máy bơm nước cho nông trại của ông Hai Sang, trước khi ăn, chú Bảy và Tuất đã men ra bờ suối hái mỗi người một nắm ớt hiểm hoang, rất cay nhưng có vị thơm nồng, chứ 'không cay hỗn' theo lời chú Bảy, nên dù ăn với cơm trắng cũng thấy ngon, huống chi lại có thịt bò kho do chính tay bà Hai Sang nấu. Mỗi lần ăn xong một trái ớt hiểm, thấy trò Tuất đều giữ cuốn ớt lại, để sau bữa cơm Tuất đếm coi mỗi người ăn tổng cộng bao nhiêu trái ớt, và ai thắng ai. Dĩ nhiên lần nào Tuất cũng chặc lưỡi bái phục khả năng ăn cay xuất chúng của ông thầy khả ái.
Anh Ramon cười cười kêu vọng vô nhà bếp, 'Sếp tới rồi, hãy bắt đầu bữa tiệc đi'. Tuất biết anh đang pha trò, nhưng cũng cảm thấy thú vị khi được gọi là sếp. Alexa, con gái anh nhỏ hơn Tuất hai tuổi, hối hả bước đến đặt lên tấm thớt gỗ, đã để sẵn trên bàn ăn, một ơ giò heo kho tương, món đặc sản của người Phi, với nước sốt còn sôi sùng sục. Theo sau là cháu anh Ramon, hai tay bê hai đĩa nước chấm. Cô đứng từ phía đối diện, chồm người qua bàn đặt một đĩa trước mặt Tuất, và từ khoảng cách mặt kề mặt gần gũi nhất đó, cô chợt ngước lên, hé mở đôi mắt long lanh sau làn mi cong vút gởi về hướng Tuất một ánh nhìn như chào hỏi, như dò xét, như e ấp, như ranh mãnh thách thức, lại như cố che dấu ẩn tình.
Cơn bão số 9, với khả năng công phá cấp 11, xuất phát từ bờ Phi Luật Tân bất ngờ đổ ập vào miền duyên hải Việt Nam. Tuất, chàng trai nước Việt, từng bỏ nhà ra đi năm 16 tuổi, từng phụ tài công lái tàu vượt sông, vượt biển, hôm nay tới đây không ngờ vô duyên vô cớ bị một cơn bão không mưa không gió đánh lắc lư con tàu ngay từ vòng đầu. Sau khi mọi người ngồi vào bàn, Ramon giới thiệu cô cháu của anh ngồi đối diện Tuất. Cô tên Charmaine, phảng phất nét Tây phương qua chiếc mũi dọc dừa. Gương mặt tươi sáng, như đóa hoa nở trên bím tóc đen tuyền choàng bên bờ vai, mơn man bên má, hờ hững thả lửng trước người cô.
Ramon nâng lon bia tuyên bố bữa tiệc bắt đầu, và quay sang Tuất mời cụng ly:
- Vô, vô.
Tuất bất ngờ trước khả năng tiếng Việt của Ramon, nhưng nhanh chóng nâng lon đáp trả:
- Vô, vô.
Chủ khách bất đồng ngôn ngữ nên đôi bên chẳng biết nói gì hơn. Ramon hiếu khách, xăng xái sớt đầy thức ăn vào đĩa Tuất. Thức ăn mà mới vài phút trước từng gợi lại nhiều kỷ niệm để đời khiến Tuất hăm hở nếm một miếng cho đã thèm nỗi nhớ quê hương, ăn một bụng cho bù lại những ngày vô vị trải nghiệm khẩu vị Mỹ qua các bữa ăn cơm lính, nhưng hiếm thấy cơm. Đó là trước khi cơn bão kéo tới, trước khi có sự hiện diện của Charmaine bên kia bàn, cuối đầu e ấp, thỉnh thoảng nhướng mắt lén nhìn Tuất, hay nghiêng mình tựa vào Alexa ngồi kế bên cười khúc khích, hay thúc khuỷu tay ngấm ngầm trao đổi những tín hiệu trêu chọc nhau.
Tuất như kẻ mất hồn, cố tập trung tận hưởng những hương vị quen thuộc gần gũi quê hương, trong khi con tim sao lãng cứ vấn vương nụ cười ngọt lịm trong ánh mắt chập chập gởi về từ phía bên kia bàn. Ramon giục Tuất nếm thức ăn, rồi huyên thiên kể chuyện, dĩ nhiên là những kỳ niệm Việt Nam của anh. Tuất không hiểu anh nói gì, một phần vì vốn liếng tiếng Anh ít ỏi, nhưng phần lớn vì chỉ còn nghe tiếng thùm thụp của con tim trong lồng ngực. Thỉnh thoảng tai bắt được những địa danh quen thuộc mà Ramon đã nhiều lần kể lại với bạn bè, như Nha Trang, Pleiku, Ban Mê Thuột, Tuất cũng vội vã gật đầu bắt theo câu chuyện: Yes, Yes, (Vâng, vâng) Ban Mê Thuột, Pleiku, Nha Trang, để cho chủ nhà thấy mình có theo dõi câu chuyện của anh ta chứ chẳng không.
Ramon xem ra nhớ nhung Việt Nam không thua gì những người Việt tha hương, khác chăng là trong khi anh vui sướng hồi tưởng những ký ức lý thú về một nơi xa lạ mà anh từng đi qua, thì người Việt quanh anh bồi hồi nhớ lại những hình ảnh quen thuộc thân thương từng là một phần đời của họ.
Sau khi huyên thiên nhắc lại những kỷ niệm của mình ở Việt Nam, Ramon xoay qua Tuất giới thiệu cô cháu của anh một lần nữa. Tuất nắm bắt cơ hội, cố gắng vận dụng khả năng Anh ngữ của mình ngỏ lời chào hỏi bắt chuyện với Charmaine:
- Where you from?
Dù câu chữ không được đầy đủ, nhưng người nghe cũng dễ dàng nhận ra cái ý muốn hỏi, Cô đến từ đâu? Charmaine e thẹn nhướng mắt nhìn Alexa cầu cứu, 'Biết người ta đến từ xứ Phi mà còn hỏi', nhưng cô cũng trả lời 'Philippines'. Hai chị em họ lại có dịp thúc cùi chỏ cười khúc khích. Ramon nhảy vào cứu bồ, cho biết cha cô là người Tây Ban Nha gặp mẹ cô là người bản địa ở đảo Mindanao, và đó cũng là nơi cô sanh ra và lớn lên. Tuất sáng mắt lên khi nghe tới địa danh quen thuộc, vội vã trả lời:
- Vâng, vâng. Tôi biết, tôi biết.
Tuất mỉm cười thú vị, không ngờ đảo Mindanao trong bài học địa lý năm Đệ Lục, mà Tuất không hề có một khái niệm gì rõ rệt hơn ngoài cái tên nghe vui tai, giờ đây lại được gặp một chứng nhân bằng xương bằng thịt đến từ nơi đó. Tuất cảm thấy lý thú với ý nghĩ, 'Té ra cô ta đến từ Mạnh-Bàn-Nạo.' Đó là cái tên tiếng Việt mà Tuất và các bạn học đã đặt cho hòn đảo quê hương của cô để dễ nhớ.
Sau đó bầu không khí lại đông đặc trong im lặng, ngoại trừ tiếng va chạm lạch cạch của muỗng đĩa. Mỗi người theo đuổi những ý nghĩ riêng tư. Tuất muốn gợi chuyện với Charmaine để khỏi phụ lòng Ramon nhưng bao nhiêu tiếng Anh biết được đã dùng hết, hay dù có biết nhiều hơn thì trong lúc dầu sôi lửa bỏng này chữ nghĩa đã không cánh mà bay từ lâu. Tuất đành ngậm nĩa than thầm,
Thấy em như thấy mặt trời,
Thấy thời thấy vậy, trao lời khó trao.
Càng ngẫm nghĩ Tuất càng cảm thấy thán phục tiền nhân: Đành rằng kho tàng ca dao của mình rất phong phú, nhưng làm sao có thể nghĩ ra một câu ca dao sâu sắc, diễn tả trọn vẹn nỗi niềm của các chàng trai nước Việt lưu lạc nơi đất khách quê người như thế này!
Ramon liếc nhìn quanh, thấy mọi người đã ăn xong, bí mật nheo mắt ra tín hiệu cho con gái chuẩn bị màn kế tiếp. Alexa khều Charmaine cùng nhau rời bàn, và kín đáo đến tắt đèn trong phòng ăn. Tuất ngạc nhiên, 'Sao ở Canada cũng bị cúp điện như Việt Nam vậy ta'. Chưa hết ngạc nhiên này lại đến ngạc nhiên khác, đèn trong phòng bỗng bật sáng trở lại. Charmaine rón rén bước vào, hai tay nâng một đĩa bánh sinh nhựt đặt giữa bàn. Cả nhà đồng thanh hát bài chúc mừng sinh nhựt kinh điển mà cả thế giới đều biết, duy chỉ có Tuất mới nghe lần đầu. Tuất thấy mọi người vui vẻ ca hát rân rang quanh mình thì cũng nhoẻn miệng cười góp vui. Ramon và gia đình ngỡ ngàng trước thái độ có vẻ dửng dưng của Tuất, bèn hỏi:
- Hôm nay chẳng phải là ngày đặc biệt đối với bạn sao?
Tuất thắc mắc, 'Ngoại trừ hôm nay là ngày cuối tuần, có gì đặc biệt đâu'. Sau một lúc đắn đo Tuất do dự trả lời:
- Tôi không biết.
Cả nhà Ramon chưng hửng. Ramon hỏi lại cho chắc,
- Không phải hôm nay là sinh nhựt của bạn sao?
Hai tuần trước, Ramon giúp Tuất điền đơn ghi danh đi học lại, và đã để ý nhớ ngày sinh của Tuất. Tuất mới vỡ lẽ, 'À đúng hén, hôm nay chính là ngày sinh nhựt của mình':
- Vâng, vâng, anh nói đúng.
Ramon thở phào nhẹ nhõm và cố giải thích cho Tuất biết, bữa tiệc sinh nhựt được tổ chức là dành cho Tuất. Anh cũng không quên nhắc khéo với Tuất bánh sinh nhựt do Charmaine làm. Tuất không nói nên lời, chỉ lắc đầu quầy quậy từ chối chấp nhận niềm hạnh phúc dâng trào trong lòng, vì không thể tin nổi những ưu ái mọi người dành cho mình là có thật, và đang xảy ra trước mắt mình. Phải một chập sau Tuất mới bắt kịp thực tại, rảo mắt nhìn từng người quanh bàn lấp bấp lập đi lập lại hai chữ 'Thank you' (Cám ơn bạn).
Tối về Tuất nằm trăn trở, cảm thấy áy náy đã làm gia đình anh Ramon cụt hứng, và hơn hết là đã phụ lòng anh Ramon. Càng nghĩ tới buổi tiệc sinh nhựt, Tuất càng cảm kích lòng tốt của anh hơn, dù từ ngày mới quen biết, Tuất và đồng hương đã mang sẵn mối thiện cảm trong lòng đồi với anh. Tuất cố tự an ủi là chuyện xảy ra ngoài ý muốn, 'Từ thuở cha sanh mẹ đẻ tới giờ có ai nhắc tới ngày sinh nhựt của mình đâu mà nhớ.' Ngoại trừ đám thôi nôi mà bà ngoại Tuất thường kể lại cho Tuất nghe thuở nhỏ. Bà kể là hôm đó ba Tuất đặt trước mặt Tuất, trên bộ ván gỗ, ba món đồ: một cây viết máy, cái kiếng soi mặt và một nắm xôi, và Tuất đã chọn cái kiếng. Bà con cười trêu chọc Tuất, chắc lớn lên thích làm điệu như con gái. Bà ngoại Tuất phải cố giải thích cho họ biết, cháu bà chọn cái kiếng có ý nghĩa là 'Thằng nhỏ này lớn lên rất sáng dạ'. Kinh nghiệm về sinh nhựt đối với Tuất chỉ có vậy.
Ngay cả những đám đầy tháng, đám thôi nôi của mấy đứa em họ, lúc nhỏ Tuất cũng không được dự. Chẳng những vậy, Tuất còn không được phép ăn mấy chén chè đậu trắng không thể thiếu trong những dịp này. 'Con nít không nên ăn chè cúng đầy tháng', bà ngoại Tuất nói, với lý do … sợ bị mất khôn! Thương cháu, bà mua xôi bắp về cho cháu ăn thế. Bởi vậy lớn lên Tuất có thói quen ăn xôi bắp thay chè. Xôi gói trong miếng lá chuối được xếp theo hình cái xuồng, khi ăn dùng một đoạn sống lá làm muỗng, ăn vào một miếng thấy béo béo, mằn mặn, ngọt ngọt, lại thơm thơm mùi bắp mùi mè, bảo đảm vượt qua cơn thèm chè dễ dàng.
Tuất nằm một mình trong căn phòng trống giữa bốn vách phủ đầy giấy hoa văn vàng úa cũ kỹ, dưới chân đèn cao lêu nghêu hiu quạnh ở đầu giường, thả hồn theo vũng sáng trên trần, tìm về ánh trăng bầu bạn lung linh trên ruộng đồng thuở nào. Ánh trăng khi ẩn khi hiện, chập chờn ký ức khi đến khi đi. Tuất chợt nhận ra, tại sao từ khi nghe anh Ramon giới thiệu tên cô cháu Charmaine của anh, Tuất đã ngờ ngờ cảm thấy quen quen. Té ra chỉ vì tên của cô nghe giống tên người yêu trong mộng một thời của Tuất. Đó là nàng Chimène.
Nàng Chimène đã đến với Tuất năm Tuất học lớp thầy Chương ở trường trung học Thoại Ngọc Hầu. Thầy Chương tuổi gần 70 đã hưu trí nhiều năm, nhưng ông hiệu trưởng vẫn đích thân đến mời thầy ra tiếp tay dạy môn Công Dân Giáo Dục, vì có quá nhiều thầy trẻ tuổi phải ra đi thi hành nghĩa vụ công dân. Tuất thích thầy Chương không chỉ vì môn học này ‘quá dễ’, khỏi phải học bài. Ai lớn lên mà không biết bổn phận công dân đâu. Tuy nhiên mỗi tuần Tuất đều mong tới ngày được gặp thầy Chương. Thầy luôn dành 15 phút cuối giờ học để thuật lại cho học trò nghe vài đoạn trong vở kịch bất hủ ‘Le Cid’ của nhà soạn kịch Pierre Corneille viết từ thế kỷ 17.
Thầy Chương mê ‘Le Cid’ đến độ theo lời thầy chỉ cần nghe ai đó đọc một câu trong truyện, thầy có thể cho biết câu đó nằm ở trang số mấy trong sách của thầy. Chưa đứa học trò nào dám đề nghị kiểm chứng lời thầy, nhưng quan sát phong cách thầy đọc làu làu từng câu chữ tiếng Pháp theo trí nhớ, rồi gật gù đắc ý, trước khi chặc lưỡi, tấm tắc khen và diễn dịch ra tiếng Việt cho mấy đứa học trò đang mê mẩn theo dõi, thì ai cũng phải tin thầy.
Chuyện kể mối tình ngang trái long trời lở đất giữa cô Chimène và chàng Don Rodrigue. Hoàn cảnh éo le đưa đẩy chàng đến chỗ phải ra tay giết chết cha nàng để bảo vệ danh dự gia đình của anh ta. Tuy sau đó Don Rodrigue đã tự nguyện mang gươm đến giao cho Chimène, để cô có thể giết anh mà báo thù cho cha, nhưng cô đã không nỡ xuống tay sát hại người yêu.
Tim cô rạn nứt vì bị giằng xé giữa bên tình và bên hiếu. Khi có kẻ thứ ba xuất hiện, tình nguyện giết Don Rodrigue để được cưới cô, cô đã đồng ý, trong ý nghĩ đó là cách biểu lộ chữ hiếu duy nhất mà cô có thể thực hiện được cho cha mình. Tuy nhiên trong lòng cô lại nguyện cầu cho Don Rodrigue được thoát nạn, và cô đã kinh ngạc khi thấy kẻ thứ ba mang gươm đẫm máu trở về. Nghĩ rằng Don Rodrigue đã bị hắn giết, cô òa lên khóc than thảm thiết và xin hủy lời hứa hôn với kẻ chiến thắng, để được yên tĩnh giam mình giữa bốn bức tường chủng viện trong suốt phần đời còn lại. Cô nào ngờ Don Rodrigue đã chiến thắng tình địch trong cuộc đấu gươm tay đôi, nhưng đã tha cho hắn ra về để cưới cô....
Chất lãng mạn bi ai trong mối tình thủy chung sâu đậm nàng Chimène dành cho người yêu đã làm rung động bao trái tim của các chàng trai mới lớn. Tội nghiệp ông thầy Chương, nếu biết được thì dù có vui cho ‘bầy trẻ’ đã bập bẹ thú yêu đương, nhưng với tư cách một nhà giáo, thầy khó tránh khỏi mang một nỗi buồn nghề nghiệp.
Bài học công dân mà thầy Chương muốn để lại trong lòng đám học trò của thầy là tấm gương yêu nước, bảo toàn danh dự và gánh vác trách nhiệm, nằm ờ phần sau của câu chuyện thầy kể. Dù Don Rodrigue quá khổ đau vì cuộc tình ngang trái, nhưng khi đất nước lâm nguy anh vẫn dũng cảm tiến ra biên cương chống giặc, đến độ gương can đảm của anh nơi chiến trường đã làm khiếp đảm địch quân, và họ đã dập đầu tôn vinh anh như một vì lãnh chúa. Đó chính là bài học về bổn phận công dân đối với tổ quốc, một bài học về nợ nước trước tình nhà, và gương can đảm của người con trai thời loạn mà thầy Chương muốn truyền đạt lại cho thế hệ mai sau.
Từ ngày đặt chân tới Canada, hằng đêm giấc ngủ của Tuất thường bắt đầu và kết thúc bởi những hình ảnh trùng điệp không đầu không đuôi của người xưa cảnh cũ ở quê nhà. Đêm nay, không ngoại lệ, ngoại trừ những khoảnh khắc dây dưa, gió rớt mưa rơi, để lại sau cơn bão Charmaine chiều nay. Nhưng khi mây tan, gió tạnh, vầng trăng xưa lại rón rén trở về, hé rạng sau mấy cánh lá hình tim rung rinh trên giàn mướp hương sau nhà ông Tư tài xế. Hình ảnh Hoa đứng sau cái cối xay bên hè nhà mà lần đầu Tuất bắt gặp lại trở về ngày một đậm nét hơn. Tuất thiếp đi trong giấc mộng đẹp.
#
Trời Manitoba vào giữa đông, bên ngoài giá lạnh. Hôm nay Thứ Ba mà Tuất đã nôn nóng mong đến cuối tuần. Tối hôm qua Alek điện thoại thăm hỏi Tuất như anh vẫn thường làm, nhưng lần này anh còn rủ Tuất cuối tuần đi câu cá. Tuất lấy làm ngạc nhiên, ‘Câu cá gì giữa mùa đông’. Các bạn câu cá người Phi, người Việt, quanh đây đã gác cần từ lâu chờ mùa hè tới!
Tuất sanh ra và lớn lên giữa bốn bề sông nước miền Tây nên không lạ gì với thú câu cá bắt tôm, nhưng theo lời anh Alek, lập đi lập lại mấy lần, là đi ‘Ice Fishing’, thì Tuất cảm thấy rất hoang mang, không biết có phải ý anh rủ mình đi câu cá hay không. Rõ ràng ‘Fishing’ là câu cá, nhưng ‘Ice’ lại là nước đá. Dù ngôn ngữ xứ người chưa thông, nhưng Tuất nghĩ mình đã không nghe lầm hai từ tiếng Anh này, nhứt là sau khi đã hỏi đi hỏi lại nhiều lần cho chắc. Vậy thì ‘Nước đá câu cá’ là gì, Tuất thắc mắc. Hay theo thuật ngữ tiếng Anh mà Tuất học được ở trại tị nạn thì nên hiểu ngược lại là ‘Câu cá nước đá’ chăng?
Tuất không phải chờ đợi lâu cho câu trả lời. Một tuần làm việc không hở tay tại xưởng sửa xe nhanh chóng trôi qua. Sáng thứ Bảy, đúng hẹn, 11 giờ trưa Alek lái chiếc xe truck (loại bán tải) chở theo đứa con trai mười lăm tuổi tới trước cửa nhà trọ. Tuất bước tới bên xe, vừa với tay mở cửa thì để ý thấy ba cái cần câu chất trong thùng xe ở phía sau. ‘Vậy là đi câu cá thiệt,’ Tuất thầm nhủ. Xe ra tới xa lộ thì bên ngoài bốn bề chói chang tuyết trắng, chỉ chừa mặt nhựa đen trên con đường thẳng tắp trải dài trước mắt. Một bên đường là mặt tuyết trắng phẳng lỳ, mênh mông, lấp lánh trên cánh đồng bắp ngày nào. Bên kia đường là rừng thông trĩu nặng từng cụm tuyết trắng trên cành. Sau hơn một tiếng đồng hồ, Alek cho xe chạy chậm lại rồi rẽ phải vào con đường dẫn tới hồ Cây Thông.
Tuất đã có dịp đếm thăm hồ Cây Thông vài tháng trước trong một chuyến đi dã ngoại cùng đồng hương. Hồ nằm cách đường cái khoảng bốn trăm thước, khuất phía sau rặng thông già cao ngất ngưỡng, bên dưới dày đặc những bụi cỏ, lùm cây cao khỏi đầu người, chen chúc, bám víu nhau, che chắn cho hồ, làm tăng nét hoang dã và tĩnh mịch của nơi này. Lúc đó trời vào cuối thu, ngoài những cây thông xanh rì muôn thuở, các cành lá khác bên dưới đã ngả sang màu vàng, màu tím, và cả màu đỏ rượu vang của mấy bụi việt quất. Đến gần hơn còn thấy lấm tấm những chấm xanh thẫm của trái ngọt mà mấy chú gấu mẹ gấu con ăn không hết, còn sót lại trên cành. Trên mặt hồ phẳng lặng, đâu đó trôi nổi vài chiếc lá vàng, tạo thêm phần thơ mộng. Tình cờ một cơn gió thoảng qua, vài chiếc lá lìa cành, lãng đãng bay trên mặt hồ, gợi nhớ mấy câu thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến mà thầy Văn lớp đệ Ngũ đã bắt bọn Tuất học thuộc lòng:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Dù nơi này không có chiếc thuyền câu bé tẻo teo, nhưng cũng sóng biếc theo làn hơi gợn tí, và cũng đủ tĩnh lặng để nghe được tiếng lá đưa vèo đâu đó.
‘Đây rồi, chúng ta đã đến nơi!’ Lời tuyên bố dõng dạc với giọng điệu pha trò cố hữu của Alek đã kéo Tuất về thực tại. Con anh Alek trùm mũ len lên mái tóc bạch kim óng ả, xăng xái mở cửa xuống xe. Tuất bước theo sau, nhìn quanh, không còn thấy một vết tích nào của nước trong, sóng gợn trên mặt hồ của mùa thu vừa qua, nhưng dựa vào vị trí của hàng thông già bên này bờ hồ và ngọn đồi thoai thoải nhô lên ở phía bên kia bờ, Tuất cũng có thể định hình được vị trí của hồ, giữa đồng tuyết mênh mông. Nhìn đâu cũng chỉ thấy tuyết. Toàn là tuyết. Chói chan một màu tuyết trắng.
Nhìn lại thấy cha con Alek đang khệ nệ chuyển một vật gì từ trên xe xuống, mà không phải là mấy cây cần câu. Nhìn kỹ hơn, Tuất mới vỡ lẽ. Đó là một cái khoan tay. Té ra ‘Ice Fishing’ là vậy. Sau vài tuần vào đông, dưới lớp tuyết phủ bên trên, mặt hồ đã đóng băng, có nơi dày gần nửa thước tây. Nhưng cá vẫn sống được ở bên dưới. Muốn câu cá người ta chỉ cần khoan một lỗ hổng xuyên qua băng rộng độ hơn một gang tay là đủ, để thả mồi xuống sâu dưới nước, có khi gần tới đáy hồ, rồi xúm nhau ngồi tán ngẫu, chờ cá cắn câu.
May mà băng đóng không dày lắm, chưa đầy hai tấc, nên chẳng bao lâu 3 cái hố câu nằm rải rác trên hồ đã được khoan xong, Alek lịch sự nhường cho Tuất chọn cần câu trước, và vỗ vai Tuất cổ vũ thi đua xem ai câu được nhiều cá hơn. Giữa ba cần câu mang theo thật không có gì khác nhau lắm, chúng đều như những cái que ốm tong, nhỏ xíu. So với mấy cây cần câu trúc ở quê nhà, dài thường thượt gấp đôi gấp ba lần, thì đây chỉ đáng gọi là loại cần ‘tăm xỉa răng’ thôi, Tuất mỉm cười với ý nghĩ đó. Thấy có hai cần màu xanh và một cần màu đỏ, Tuất chọn màu xanh. Cố ý để cho cha con Alek có được một sự chọn lựa giữa xanh và đỏ. Tuất vừa nhặt cây cần câu lên, chưa kịp lui ra phía sau, thì cha con anh Alek đã nhảy bổ vào giành giựt cái cần xanh còn lại cho bằng được.
– Con trước !
– Ba trước !
Hai cha con đùa giỡn, giằng co, người nào cũng muốn chiếm hữu cái cần màu xanh. ‘Phải chi biết trước cha con họ thích màu xanh đến độ này, mình đã để lại cây cần màu xanh cho họ,’ Tuất nghĩ bụng. Sau cùng thì Alek cũng đã nhường cho con. Với tay nhặt cái cần đỏ lên, Alek đến bên cạnh Tuất giải thích, con anh rất thích miếng mồi bên cây cần màu xanh đó. Nó tin miếng mồi đó hên, giúp nó bắt được nhiều cá, Tuất loáng thoáng hiểu ý Alek muốn nói như vậy. Té ra họ giành nhau vì mồi, chứ không phải vì màu. Từng là một dân câu lục tỉnh dĩ nhiên Tuất hiểu được điều đó. Ở dưới quê Tuất ai đi câu mà không biết mồi là quan trọng, câu loại cá nào thì móc loại mồi cho cá đó. Mồi trùng (giun) để câu cắm bắt cá trê, mồi nhái câu rê bắt cá lóc, còn mồi cơm mốc thì dành để câu phao bắt cá sặc. Bằng không thì chọc ổ kiến trên mấy cây ổi cho trứng kiến rớt xuống đất, rồi lượm lên, móc mồi đem câu, là bảo đảm trên mâm cơm ngày hôm đó có món cá sặc chiên giằm mắm ớt ngon lành. Hay ít ra cũng một tô cá sặc nấu canh bầu ngọt sớt.
Tuất bèn dõi mắt xuống cuối sợi dây câu của mình, để coi có mồi chưa. Lạ quá, mồi đã được gắn sẵn, nhưng là mồi giả. Đó chỉ là một miếng thiếc sáng lấp lánh, có hình dạng hao hao giống con cá lòng tong, phía sau đuôi lại treo tòn ten một cái lưỡi câu to bằng đầu ngón tay. Tuất không tài nào hiểu nổi. Bộ cá Canada mù hết sao mà đớp loại mồi này. Chẳng những mồi đã quá giả tạo, lại khoe ra cái lưỡi câu nhọn quắc, sáng ngời giữa thanh thiên bạch nhựt.
Ở dưới xứ Tuất, người ta chỉ dùng mồi sống, và sau khi móc mồi còn cẩn thận ngắt một cọng cỏ, cắm vào đầu nhọn của lưỡi câu để ngụy trang. Thậm chí, vào nhưng buổi chiều khi muốn rủ nhau đi cắm câu bên bờ mương, bạn bè cũng chỉ nói bóng nói gió hay ra ám hiệu với nhau thôi, chứ không dám lên tiếng nói huỵch toẹt là sẽ đi cắm câu, sợ 'vía cá' nghe được, đêm đó chúng sẽ trốn mất tiêu hết.
Tò mò nhìn sang miếng mồi ruột của con anh Alek, Tuất thấy càng hỡi ơi. Nó chỉ là một miếng nhựa hình ống, màu xanh lá cây, có gắn một cặp mắt thồ lộ như mắt ếch, sơn trắng toát với một chấm đen ở giữa, trông giống như một món đồ chơi của trẻ con. Nhưng lủng lẳng treo ở phía đuôi, không phải chỉ có một, mà là ba cái lưỡi câu dữ dằn, đâu lưng vào nhau, nhe nanh nhọn quắc ra ba hướng. Vậy mà cá cũng cắn câu, thiệt sao!
Tuất còn đang thắc mắc đã thấy Alek phanh chiếc ghế xếp ra ngồi bên miệng hố câu của anh ta, bắt đầu chăm chú thả mồi, và tuyên bố cuộc thi câu cá bắt đầu. Con của Alek và Tuất mạnh ai nấy hối hả kéo đến hố câu của mình, bắt ghế ngồi thả dây câu trổ tài. Alek thủ cần câu trong tay trong tư thế chờ đợi. Đăm chiêu. Anh dõi mắt nhìn ra xa, cả một không gian yên tịnh, không một bóng người khuấy động mặt tuyết trinh nguyên.
Alek ngửa mặt lên cao, quay về hướng mặt trời tưởng chừng để hứng cho được trọn vẹn từng giọt nắng ấm từ nguồn cội, từ thiên thể của những thiên thể, anh buột miệng kêu lên sảng khoái:
– Tuyệt vời, không còn gì hơn.
Cùng lúc, con của Alek reo mừng:
– Tôi được rồi, tôi được rồi !
Quả là mồi của thằng bé lợi hại thiệt, Tuất thầm nghĩ. Nó đã câu dính một con Northern Pike, mà người mình gọi là Cá Chó, sống ở vùng nước lạnh phía bắc. Thịt cá tuy rất ngon nhưng hình thù có dáng vẻ cổ đại vì cái đầu sần sùi dẹp lép như đầu cá sấu. Thân cá hình ống, dài đòn, có màu xanh ô-liu, lấm chấm những đốm màu vàng lợt, không khác con lương bông.
Loài cá này rất hung hãn. Alek đã từng bị nó dọa một phen hú hồn. Trong một chuyến đi câu vào mùa hè vài năm trước, Alek kể, anh đang đứng trên một tảng đá bên bờ sông, lơ đễnh nhìn trời nhìn mây, lập đi lập lại một động tác, quăng mồi ra xa gần giữa sông, rồi kéo mồi về. Quăng ra … kéo vào …. tới một lần, sau khi kéo mồi vào tới kế bên chân, Alek vừa nhấc mồi lên, thình lình một con Cá Chó phóng ra khỏi mặt nước, lao theo con mồi trong không, chỉ cách Alek trong gang tấc, khiến anh giật bắn người lên, tưởng bị cá tấn công.
Alek mở hộp đồ nghề, lấy cái kềm dài cán để phụ con gỡ lưỡi câu ra khỏi cái miệng lỏm chỏm hai hàm răng bén nhọn. Sau khi hai cha con trầm trồ chiến lợi phẩm đã thèm, Alek thả con cá trở xuống hồ, trước sự ngạc nhiên của Tuất. Cha con Alek không bắt cá để ăn, mà coi trò bắt cá là một môn thể thao giải trí. Tuất thảng thốt, lần đầu tiên thấy có trò chơi như vậy. Tuất nhìn theo con cá mà lòng tiếc hùi hụi, ‘Con cá đó mà nướng trui lên ăn là hết sảy.’
Sau mấy phút phấn khởi đứng ngồi không yên, con của Alek đã bắt đầu kêu đói. Mọi người kéo ghế ngồi quay quần bên hố câu của Alek để ăn trưa. Alek trao cho mỗi người một cái dĩa giấy nhỏ, trên đó có ba thỏi phó-mát, vài cọng cần tây và mấy củ cà-rốt bé tí bằng ngón tay út. Vài phút sau anh lôi từ trong ba-lô ra một hộp sữa tươi cho con anh và một chai rượu vang đỏ với hai ly bằng nhựa. Quay sang Tuất anh nheo mắt nói, ‘Mình cần thứ này để giữ cho cơ thể ấm, đó là chưa kể nó cũng bắt với món phó-mát lắm’.
Tuất nhìn dĩa thức ăn, thầm nghĩ, thôi thì người ta làm sao mình làm vậy, chứ ăn uống gì mà khổ quá! Trong lòng Tuất lại một lần nữa cảm thấy tiếc đã mất dịp ăn một buổi cá nướng, hay ít ra cũng một bữa cá Chó nấu ngót hay gì đó. Cha con Alek huyên thiên nhắc lại những pha gây cấn hồi hộp trong trận hockey (băng cầu) trên tivi tối qua. Đó là một trò chơi trên băng, gồm hai đội mỗi bên dùng gậy cố đánh một cái đĩa tròn khá nặng vào khung thành của đội bên kia. Vì đĩa màu đen và lớn chỉ bằng lòng bàn tay người lớn nên rất khó theo dõi trên TV. Tuất không thể hiểu được vì sao nó có thể trở thành một trò chơi có tánh quốc hồn quốc tuý của xứ này.
Nhìn xuống đĩa ăn thấy còn một cọng cần tây già mà Tuất đã định vứt đi, Tuất chợt nhặt lên cho vào miệng. Nhân nha. Lơ đãng nhìn lên bầu trời cao, một gợn mây lẻ loi đang kéo đến từ một nơi xa xăm nào đó. Thiệt xa. Văng vẳng vọng về bên tai Tuất dư âm thời thơ ấu:
– Bà ngoại coi con ăn hết cơm rồi nè.
– Ừ, cháu tui giỏi quá !
Bên cạnh, cha con anh Alek đã đổi đề tài lúc nào không hay, mải mê ôn lại những kỷ niệm trong chuyến săn nai ở cánh rừng kế bên từ mấy tháng trước.