Tết Bính Thìn vào ngày Thứ Bảy 31 tháng Giêng năm 1976, là cái Tết xa nhà đầu tiên của người Việt tị nạn ở hải ngoại. Riêng tại Winnipeg, mục sư Swanson, dù mang cái tên mà nhiều người Việt cảm thấy 'đọc trẹo bản họng', khó phát âm cho đúng được, nhưng tấm lòng của ông dành cho cộng đồng thì không ai không cảm kích, đã tận tình hỗ trợ cho người Việt tổ chức một buổi họp mặt ăn Tết tại phòng tiệc ở dưới hầm nhà thờ.
Một tuần trước Tết, anh Hiển lái xe đến đón Tuất và anh Minh đi phố Tàu mua nhang đèn cúng Tết và vài vật liệu trang hoàng tạo không khí Tết cho phòng hội. Anh Hiển là một trong vài người sắm xe sớm nhất trong số đồng hương đến cùng thời. Anh từng tu nghiệp ngành truyền tin tại căn cứ hải quân Mỹ trên đảo nhân tạo Treasure Island ở vịnh San Francisco, và sau đó còn trở lại trong vai trò huấn luyện viên. Sau khi đến Winnipeg, nhờ thông thạo tiếng Anh lại có tay nghề cao nên anh đã tìm được việc làm tốt và sớm hội nhập đời sống địa phương, sắm xe, mua nhà, theo trình tự bất thành văn đã đi vào nếp sống của dân tứ xứ trên mảnh đất thời cơ.
Anh Hiển vừa mở máy xe, Tuất ngồi ở băng sau, chưng hửng nhìn quanh, tìm kiếm. Tiếng nhạc quen thuộc ra rả bên tai hằng ngày từ cái ra-dô ở ga-ra chú Bảy, sau mấy tháng bặt tăm, tưởng chừng không bao giờ còn được nghe lại nữa, bỗng trổi lên quanh đây. Té ra nó phát xuất từ cái máy Cassette ở phía trước xe của anh Hiển, những âm ba không chỉ quen tai mà còn chạm vào tận đáy lòng của Tuất.
Từ lúc Tuất còn chưa đầy năm tháng tuổi thì mẹ Tuất ngã bệnh nặng, phải gởi cháu cho ông bà ngoại nuôi. Sau hơn nửa năm, 'nhờ Trời Phật thương', bịnh tình của mẹ Tuất được thuyên giảm đôi phần. Tới lúc đó thì bà ngoại Tuất đã trải qua nhiều ngày vắn đêm dài cận kề bên đứa 'cháu ngoại đầu lòng'. Mỗi buổi chắt nước cơm thay sữa mẹ nuôi nó lớn lên từng ngày, nên 'mến tay, mến chân' mà không muốn rời xa nó. Bà nào mà không thương cháu, nhưng trong trường hợp này bà muốn giữ Tuất lại bên mình là còn có ý để cho con gái bà được 'rảnh tay rảnh chân' để dưỡng bịnh thêm. Cha mẹ Tuất đành phải chờ tới khi Tuất đến tuổi đi học được, mới viện cớ mang con về nhà.
Dù Tuất chỉ sống với bà mấy năm đầu đời, nhưng nước sông đã chảy thì không thể dừng, phù sa đã bồi thì không thể lở, những truyện cổ tích bà kể, những lời ca bà hát ru cháu ngủ tiếp tục lưu hành trong huyết quản nó. Những âm thanh êm ả, rỉ rả trong tiềm thức dệt nên một trời ký ức tuổi thơ huyền diệu trong tâm khảm Tuất. Nơi đó có 'con Tấm' hiền thục, hiếu thảo, ẩn náu trong hột thị, cho tới ngày có cái duyên gặp bà lão nghèo nàn, đơn chiếc, đứng dưới gốc thị mà kêu, '… Thị thị rớt bị bà già ăn chơi …'. Tấm đã theo bà về nhà để kín đáo hiện hình những lúc bà đi vắng mà chăm lo cơm nước, quét dọn nhà cửa cho bà.
Những phép mầu kỳ diệu dần dà bén rễ trong tâm hồn trẻ thơ. Vọng về đâu đó trong tiềm thức Tuất cón có tiếng đàn giải bày nỗi lòng Thạch Sanh ... 'Đờn kêu tích tịch tình tang, ai đưa công chúa lên thang mà về'. Theo thời gian những mẫu mực của cái xấu cái đẹp, cái thiện cái ác, cái nhân cái quả, tượng hình qua những tấm gương tương phản của các nhân vật trong truyền thuyết, đã ánh lên thứ ánh sáng hải đăng dẫn dắt Tuất vào đời, ươm mầm cho tấm lòng biết vui buồn theo từng cái vui, nỗi buồn của dân gian.
Các câu hò, điệu lý lúc ban đầu chỉ là những mớ bòng bong ngổn ngang trong đầu đứa cháu:
… Khớp con ngựa ngựa ô ... Ngựa ô anh khớp ... Anh khớp cái kiệu vàng… Anh tra khớp bạc ... lục lạc đồng đen ... búp sen lá dặm ... dây cương nhuộm thắm ... cán roi anh bịt động 'thà'.
… I … Í … I … Đưa nàng 'dìa' dinh … là anh đưa nàng 'dìa' dinh …
Những câu từ, chữ nghĩa, lạ lẫm nó chưa từng nghe, thêu dệt nên những hình ảnh nó chưa từng thấy, nhưng đối với con tim nó thì khác, nó nếm được cái ngọt ngào trong chất giọng của bà, nó cảm nhận được cái ấm áp, dỗ dành, yêu thương phát xuất tự cõi lòng bà. Cứ vậy mà nó an tâm đi vào giấc ngủ, men theo tiếng leng keng của lục lạc, tìm đến những đóa sen hồng lãng đãng giữa ao nhà.
Giờ đây lạc lõng giữa ốc đảo băng giá, trùng trùng tuyết trắng. Tất cả đều xa lạ, từ cụm mây trên trời tới cành cây ngọn cỏ dưới đất, từ tiếng nói tiếng cười của con người bên trong xưởng làm, đến những tiếng động cơ khí của xe cộ bên ngoài đều lạ lẩm bên tai anh thợ máy Tuất. Bỗng dưng, ùa về trong thinh không cái quen thuộc, cái thân thương từ trong sâu thẩm tận đáy lòng. Cái ấm áp làm tan băng chảy tuyết, thành dòng nước ngọt, thành con suối mát, róc rách bên tai, tỉ tê trong lòng. Tiếng nhạc từ máy cassette của anh Hiển âu yếm ôm trọn lấy Tuất vào lòng. Rõ ràng là giọng hát người em gái hậu phương của mấy anh lính mà Tuất nghe mỗi ngày trên ra-dô và trên TV ở ga-ra chú Bảy. Giọng hát của TV Chi Bảo Phương Hồng Quế đây mà. Riêng đối với Tuất chất giọng thân thương đó còn gần gũi hơn, vì nó mang âm hưởng thắm đượm chơn tình của cô bạn mà chàng từng thầm yêu trộm nhớ.
Xe chạy tới trước cửa tiệm thực phẩm, dừng lại bên lề đường, anh Minh giang tay ngỏ ý ngăn anh Hiển tắt máy xe, để được nghe hết bản nhạc tiếp theo Hà Thanh đang hát. Anh rút gói thuốc Player từ trong túi áo parka ra mời anh Hiển. Hai anh quay cửa kíếng xe nhích xuống một tí, vừa đủ để tiễn từng ngụm khói thuốc ra bên ngoài, lại tránh khỏi bị khí lạnh cắt da cắt thịt ùa vào bên trong quá nhanh. Giây phút tưởng chừng dù ngồi giữa căn lều tuyết của những người Eskimo trên tận đỉnh địa cầu cũng không ngăn nổi hai anh em bạn lính không hẹn mà cùng quay về dĩ vãng, tìm lại những khoảnh khắc hiếm hoi ngồi dựa ba lô nghe nhạc lúc dừng quân, bên cánh rừng, ven cánh đồng, dưới bầu trời nhiệt đới oi ả.
Chỉ có phép mầu âm nhạc, và phải là âm nhạc Việt Nam, mới có đủ huyền năng ươm cho phượng nở vào đông, mai vàng trổ hoa trên tuyết trắng, để làm vơi đi nỗi mất mát trong tâm hồn, để xoa dịu nỗi đau trong lòng những kẻ tha hương bất đắc dĩ. Tiếng hát Hà Thanh khoác nét trang đài mẫu mực cung đình lên cái sâu lắng của sông Hương, cái hữu tình muôn thuở của miền núi Ngự, nếu ngày nào có thể mang đến những khoảnh khắc yên ả, lắng đọng, giữa chốn xô bồ, thì giờ đây lại đem đến cái vỗ dành của tiếng ru quê hương đối với những đứa con lưu lạc bị vùi dập bởi cơn thịnh nộ của đất trời, nhắc nhớ chiều dài lịch sử dân tộc vượt xa những biến động thăng trầm nhứt thời của thế gian.
Tiếng nhạc vừa dứt, Minh với tay dụi tắt điếu thuốc, dõi mắt ra bên ngoài khung kính, buột miệng bâng quơ:
- Nghĩ lại thấy Phạm Quỳnh nói đúng chỉ một nửa.
Anh Hiển trố mắt nhìn anh Minh, Anh Minh tiếp:
- Hôm nọ lúc đang ngồi nhậu, tụi này có nhắc lại câu nói bất hủ của Phạm Quỳnh, đại khái là … truyện Kiều còn … nước ta còn. Nhưng hôm nay mình thấy cần nói thêm: Âm nhạc ta còn, nước ta còn.
Anh Hiển gục gật đầu tâm đắc. Trầm ngâm một đỗi rồi nói:
- Chí lý, chí lý. Nhạc cải cách chẳng luôn gắn liền với đời sống các thế hệ thanh niên thời đại sao.
Anh Hiển không sai, trải qua bao thăng trầm của đất nước, tân nhạc tuy sinh sau đẻ muộn nhưng đã gắn bó với những người thanh niên thành thị như bóng với hình qua nhiều thập niên, nhưng quan trọng hơn là đã đi vào lòng người và phổ biến sâu rộng trong quần chúng, bất chấp mọi thử thách từ hoàn cảnh nước nhà khó khăn đến thành kiến xã hội nặng nề đối về nghề ‘xướng ca’.
Tùy từng giai đoạn lịch sử, niềm vui và nỗi đau của dân tộc đã khảy lên những khúc nhạc, viết nên những lời ca, từ nhẹ nhàng lãng mạn ca tụng tình yêu, tới mạnh mẽ hùng tráng cổ vũ lòng yêu nước, từ bâng khuâng chia sẻ tâm trạng thanh niên thời chinh chiến tới khắc khoải hoài nghi một kiếp nhân sinh.
Ba anh em bước vào tiệm tìm mua hai xấp bao lì xì, và một số nhang đèn cúng Tết. Xong anh Hiển nói,
- Bây giờ mình còn phải mua bào ngư nữa.
Minh ngạc nhiên hỏi,
- Chi vậy anh?
- Mấy bà nội tướng nhức đầu mấy ngày nay không biết phải nấu món gì.
- Thì Tết nhứt cứ thịt kho, dưa giá, được rồi.
- Mấy bả sợ người Canada chê. Vả lại không biết người ta chịu nổi mùi nước mắm của mình không.
- Ờ cũng có lý, mặc dù tôi đã từng thấy Mỹ ở Việt Nam húp nước mắm rột rột, nhưng cũng có tên bụm mũi kêu trời, không chịu nổi cái mùi đó. Vậy mấy bả tính sao.
- Mấy bả cũng đồng ý là các món truyền thống thì ít nhiều gì cũng phải ráng làm cho có. Ngoài dưa giá ăn với thịt kho, còn có món gỏi tôm. Nhưng mấy bả vẫn cảm thấy mình cần có món ăn coi được để đãi khách ngoại quốc. May có chị Bảy biết làm bào ngư, nên đề nghị món cải bào ngư.
- Món này ăn Tết chưa nghe qua à nha.
- Miễn món đắt tiền là được rồi. Ông Cha Swanson cho 50 đô-la ăn Tết, biết xài sao cho hết. Nếu chỉ nấu thịt kho, sợ không đủ nồi để nấu.
- Ờ, ai cũng chân ướt chân ráo mới tới đây, làm được món nào hay món nấy.
- Đúng rồi. Bà Hai thì ước gì có đủ đồ nghề để bả trổ tài nấu bánh chưng. Nhưng nội cái lá chuối thôi tìm đâu ra. Vợ tui bắt tui đi kiếm bánh tráng cho bả chiên chả giò, hay cuốn gỏi cuốn gì đó. Cũng chịu thua luôn.
Mua xong hai hộp bào ngư, ba anh em trở ra xe chạy đi mua hai tờ giấy áp-phích, bề khổ rộng gần nửa thước tây để vẽ hình Rồng và viết mấy chữ Mừng Tết Bính Thìn trang hoàng cho phòng tiệc tạo không khí Tết.
Về tới nhà anh Hiển, mọi người ngồi bẹp trên sàn nhà quanh bàn tiếp khách (coffee table), trang bị với hai hộp màu sáp của cháu Tèo con anh Hiển, xăn tay áo lên ra tài họa sĩ. Tuất được khen viết chữ đẹp và giao cho tấm bích chương màu đỏ để viết mấy chữ mừng Tết. Anh Minh với anh Hiển phụ trách vẽ Rồng trên tấm bích chương trắng, dựa trên hình mẫu mà Anh Hiển đã thủ sẵn. Đó là hình minh họa cho một bài báo nói về Tết đăng trên nhựt báo Free Press.
Xong xuôi, ba anh em giơ hai tấm áp-phích lên, nhìn tới nhìn lui, nhìn ngang nhìn dọc. Anh Minh nói:
- Sao không giống Tết lắm.
Anh Minh đồng ý,
- Phải chi mình mua hai tấm màu đỏ hết, chắc giống Tết hơn.
Tuất chợt kêu lên:
- Em biết rồi. Chắc tại thiếu dưa hấu đỏ.
Anh Minh cười hề hề:
- Thằng này có lý à nhà. Vậy năm nay mình cho Rồng ăn dưa hấu đi.
'Chơi luôn', nói xong anh Minh đã cầm cây màu sáp đỏ lên, chỉ tay vào hình con rồng, hỏi ý kiến anh Hiển,
- Anh coi mình nên thêm dưa hấu vô chỗ nào cho hay.
Tuất ôm bụng cười lăn dưới sàn,
- Hồi nào giờ em chưa thấy rồng ăn dưa hấu à nha.
Minh vỗ trán kêu lên,
- Tại sao mình có thể quên được ta. Phải có pháo nổ nữa mới được. Thay vì pháo múa lân, mình chơi pháo múa rồng.
Vậy là con Rồng 1976 vừa ăn dưa hấu vừa né… xác pháo đỏ. Nhưng anh em vẫn chưa hài lòng lắm. Sau khi ực hết lon Coca Cola, anh Hiển vỗ đùi cái bốp, kêu lên, 'Biết rồi mấy ông ơi.'
- Tuất, tới phiên mầy. Lấy cây màu sáp vàng thêm đầy bông mai vàng vô hai tấm hình cho tao.
Tuất xăng xái ra tay. Anh Hiển cười khoái chí. Anh Minh ngồi lặng người, nhướng mắt ngắm hai tuyệt tác phẩm hội họa một lúc rồi gật gù phán,
- Bây giờ mới ra Tết đó!
Lo xong hai tấm bích chương, anh Hiển nhướng mắt nhìn anh Minh:
- Anh Minh ơi, còn chuyện này muốn bàn với anh.
- Chuyện gì vậy anh?
- Trong bài báo về Tết này, họ gọi đó là Tết người Hoa. Anh thấy sao.
- Tôi nghe nói người Hoa đến Canada sớm lắm. Ít ra là từ gần cuối thế kỷ 19. Họ đến tập thể, nghe nói đông lắm, để làm công nhân xây đường rầy xe lửa. Có lẽ vì người Canada từng thấy cảnh họ ăn Tết từ thời đó tới nay, nên quen gọi như vậy.
- Nhưng bây giờ có mình ở đây họ đâu có thể nói như vậy được.
- Nước mình có một chút xíu bên kia đại dương ai mà để ý.
- Có à nha. Tôi nhớ trên báo chí Mỹ luôn gọi cái vụ Tết Mậu Thân là 'Tet Offensive' (Cuộc tấn công vào ngày Tết).
- Ờ, anh nói đúng. Và dù cho người ta chưa biết, thì mình cũng nên nói ra cho người ta biết.
- Hoàn toàn đồng ý. Vậy tiện đây mình thảo luôn một lá thư độc giả gởi cho nhà báo.
Một tiếng đồng hồ sau hai anh em soạn xong bản thảo, anh Hiển bắt đầu gõ lọc cọc trên bàn đánh máy một bức thư, đề nghị với báo Free Press trong tương lai gọi Tết là Ngày Đầu Năm Âm Lịch (Lunar New Year), bởi vì đó là ngày Tết chung của một số dân Á Châu, trong đó có người Việt.
Cái Tết đầu tiên của người Việt tha hương sau 1975 rồi cũng đến trong nỗi bồi hồi nhớ nhà, sau nhiều ngày bồn chồn mong đợi mà không hẳn biết đợi ai, đợi cái gì. Đợi ngày về phép của anh lính trận? Đợi buổi gia đình đoàn tụ, quay quần bên ông bà, khoanh tay mừng tuổi? Đợi bao lì xì đỏ? Đợi bộ quần áo mới? Đợi tiếng pháo nổ, ra trước bàn thiên ngoài sân nhà thắp nhang cúng Giao thừa? Đợi buổi gầy sòng bài cào với mấy đứa em? Hay chỉ đợi những ngày trong lòng thơi thả, không lo không nghĩ, kẽo kẹt đạp xe đi thăm thầy, thăm cô, thăm bạn thăm bè?
Làm gì còn những cánh bướm mùa Xuân để mơ để tưởng. Làm gì còn đêm giao thừa ngồi gấp những tờ giấy bạc một đồng, hai đồng, theo hình cánh bướm, máng trên cành mai vàng chưng trên bàn thờ, phía sau bộ lư đồng bóng loáng, bên mâm trái cây, bên quả dưa hấu. Mùa Xuân ở đây chợt xuất hiện trong cái sảnh nhỏ ở dưới hầm nhà thờ. Tết ở đây chợt đến qua buổi gặp gỡ đồng hương, được líu lo tiếng Việt cho đã thèm.
Không khí Tết ở đây là những thứ treo hoa kết tụi, nào bong bóng đỏ, bong bóng xanh, nào giấy màu rực rỡ bủa giăng khắp trần mà ông Cha Swanson đã chu đáo cho người trang hoàng mừng Tết với cộng đồng. Thêm vào đó là hai bích chương chủ đề do anh Hưởng mang tới, dán vào tấm bảng xanh đặt ở cuối phòng. Ngoài ra, dưới sự nhiệt tình hướng dẫn của Cha Swanson mọi người còn hợp ca bản Kumbaya vinh danh Chúa Trời. Thật ra là chỉ hát bè vuốt đuôi, Cùm-ba-dá … Cúm-ba-da….
Sau đó ông Cha hoan hỉ đón nhận vai trò gia trưởng phát bao lì xì cho các cháu nhỏ, mà thật ra tính theo tuổi tác ông cũng rất xứng đáng là ông nội, ông ngoại của chúng. Nhiều bao lì xì cũng được gởi tặng con em trong gia đình các thiện nguyện viên bản xứ đã phụ tổ chức cái Tết đầu tiên cho cộng đồng.
Tiệc tùng xong bác Quý, một cao niên trong cộng đồng, tình nguyện đứng lên điều khiển chương trình chơi câu đối truyền thống ngày Tết. Ai cũng khen cụ văn chương chữ nghĩa một bụng, lại ăn nói hoạt bát và… có duyên. Câu đối mà cụ bảo là bất hủ, và chưa có đối thủ suốt mấy mươi năm qua là:
Thế Lữ mừng xuân hai thứ lễ;
Một quả lê ta, một quả lê tây.
Thế Lữ là một nhà thơ, nhà văn xuất chúng từ thập niên 30, còn có tên là Nguyễn Thứ Lễ, với bút hiệu Lê Ta (‘Ta’ được hiểu theo nghĩa là cái ngã của con người. Vậy Lê Ta còn là Lê thêm dấu ngã thành Lễ). Tuất, đứa trẻ người non dạ, lại hiếu thắng đâu dễ chịu thua, đã giơ tay lên xin phép được ra câu đối đáp. Nó nói:
Tượng lo cúng dường hai lọ tương;
Một lọ tương nặng, một lọ tương nhẹ.2
Tuất giải thích, ‘lọ tương’ là tiếng lái của ‘tượng lo’. Còn ‘tương nặng’ dĩ nhiên là ‘tượng’ rồi. Bà con có dịp cười thỏa thích. Tuất lại xin phép bác Quý được đưa ra một câu đối khác. Mọi người hồi hộp lắng nghe. Tuất đọc,
Công chúa gặp hai chúa công,
Một người ‘chống’, một người ‘cua’.2
Cả sảnh đường bà con ôm bụng cười lăn cười bò. Bao nhiêu phiền muộn biến đâu mất, vui vẻ ra về. Người khoác măng-tô, kẻ trùm parka, người mang giày ống, kẻ mang ủng, hiên ngang bước vào màn đêm vô định bên ngoài, đối diện với thực tế 20 độ âm Celsius, lội bộ trên tuyết suốt mười, mười lăm, hai chục phút trước khi tới nhà. Năm mới đã bắt đầu, và năm mới phải bắt đầu. Vì bản thân, vì con cái, vì người thân còn lại ở quê nhà, mỗi người một tâm trạng.
#
Tết rồi cũng qua. Đồng hương đi kéo cày trở lại. Chiều nay Tuất phải làm việc thêm nửa tiếng giờ phụ trội, rời xưởng trễ, bao tử đã cồn cào, Tuất bước nhanh tới tiệm bánh mì 'Tiềm Thủy Đĩnh' trên đường Portage nằm vắt ngang khu phố chính, ăn một bữa cho đã thèm. Đang ngồi gậm ổ bánh mì dài cả 2 gang tay, cố ăn nhanh cho xong để có đủ thời gian về phòng tắm rửa, trước khi lội bộ 20 phút đến trường học lớp ban đêm. Tiệm giờ này vắng khách, còn vài bàn trống xung quanh, nhưng một anh bạn trẻ dáng dấp Á châu cố ý tìm đến bên bàn Tuất xin phép ngồi chung. Tuất mừng như gặp cố nhân. Vừa ngồi xuống anh đã hỏi (bằng tiếng Anh):
- Anh là người Việt?
Tuất ngạc nhiên:
- Sao anh biết.
- Tôi xem tin tức thấy mấy tháng nay đã có hơn bảy mươi người Việt tị nạn đến đây.
- Sao anh biết tôi là người Việt.
- Tôi thường đến đây ăn, và trước đây ít khi gặp một người Á châu nào khác.
Tuất tò mò hỏi:
- Anh từ đâu tới?
- Tôi đến từ Mã Lai; là sinh viên tại đại học Manitoba.
Tuất cảm thấy vui trong lòng gặp được người trò chuyện, nhưng phải xin phép ăn vội để còn đi học. Anh bạn Mã Lai tò mò hỏi:
- Anh học lớp ban đêm sao?
Tuất vừa nhai bánh mì vừa gục gật đầu đáp trả. Anh sinh viên Mã Lai thông cảm:
- Thiệt là khó khăn khi phải vừa đi làm vừa đi học.
Tuất không ngờ một người lạ lại hiểu thấu hoàn cảnh mình như vậy, anh để ổ bánh xuống, nhìn ra bên ngoài nói:
- Rất là khó khăn. Tôi không biết tôi có thể chịu đựng nổi hai năm như thế này để lấy bằng trung học hay không.
Anh bạn Mã Lai chia sẻ:
- Có một giai đoạn tôi đã thử vừa đi học vừa đi làm, nhưng cảm thấy quá mệt mỏi, và không đủ kiên nhẫn để tiếp tục.
- Vậy anh làm sao?
- Tôi thà đi làm việc cực mà có lương cao trong một thời gian ngắn hạn. Sau đó dùng số tiền để dành được ghi danh đi học trọn thời gian. Làm vậy mình mới có nhiều thời gian cho việc học bài và làm bài của trường.
Tuất sáng mắt lên hỏi:
- Anh đã làm công việc gì vậy?
- Có hai việc làm mà tôi đã thử. Lúc đầu một người bạn giới thiệu tôi đi làm phục dịch trên xe lửa xuyên lục địa Canada, như bán thức ăn hay làm bồi trên mấy toa xe hạng nhứt. Chỉ cần làm vài tháng hè là kiếm đủ tiền để đi học nguyên năm.
Tuất hớn hở:
- Vậy hay quá.
Anh Mã Lai lắc đầu:
- Nhưng rất mệt, vì mỗi chuyến đi từ Vancouver tới Montreal hay ngược lại phải mất hơn bốn ngày liền. Ăn ngủ gì cũng ở trên xe, vừa ồn ào vừa luôn lắc lư. Khó ngủ lắm. Qua mùa hè sau, tôi lên làm việc ở miền bắc, cho mấy công ty hầm mỏ.
- Mỏ than hả bạn?
- Không, chỗ tôi làm là mỏ Kền (Nikel). Từ đây phải bay 2 chuyến bay mới tới. Chỗ đó hoang dã lắm, không có phi trường gì hết. Sau khi bay gần 2 tiếng lên miền bắc tới thành phố Thompson, bạn sẽ chuyển qua chuyến bay thứ nhì, trên một chiếc máy bay nhỏ, đáp xuống một bãi đất trống gần vị trí của mỏ. Thật ra gần khu nhà nghỉ của công nhân hơn.
Nghe như vậy Tuất bắt đầu cảm thấy thối chí. Khí hậu ở đây đã lạnh như thế này, thì trên miền cực bắc của Canada còn lạnh tới cỡ nào nữa, Tuất nghĩ. Anh bạn Mã Lai như đọc được nỗi lo của Tuất, nói tiếp:
- Ở trên đó tuy ngoài trời lạnh, nhưng bên trong mấy cái trại đều có lò sưởi như ở đây. Tôi làm việc 4 tháng mà để dành đủ tiền để đi học gần hai năm.
Tuất phấn chấn lại, hỏi thăm về cách thức xin việc làm. Anh bạn Mã Lai rút cây viết nguyên tử (bút bi) từ trong túi áo ra, viết vội địa chỉ công ty lên tấm khăn giấy trên bàn và trao cho Tuất. Tối đó sau khi đi học về, Tuất nằm một mình trên giường, dán mắt lên trần trăn trở tới khuya, suy đi tính lại, cân nhắc lợi hại về một việc làm mà Tuất chưa hề nghĩ tới và ngay cả chưa nghe ai nhắc đến bao giờ: làm thợ hầm mỏ.
Tuất cố hình dung ra một cảnh tượng khai thác mỏ xem nó có thể như thế nào. Trên một miệng hố cạn, mấy người đàn ông thi nhau quơ xuổng xúc đất, vét sâu từng tấc một; chung quanh họ là những người đàn bà đội nón lá tới lui, tay bưng từng ki đất mang ra xa đổ đi. Họ cứ tiếp tục như vậy từ sáng tới tối, ngày này qua ngày khác. Hố càng lúc càng sâu, cho tới khi xuổng các thợ mỏ chạm phải thứ kim loại mà họ muốn tìm. Tuất không biết là kim loai gì dù anh bạn Mã Lai đã nói qua.
Tuất lại cố tưởng tượng sức mình có thể chịu nổi việc làm như vậy không: Mặc áo người Ét-ki-mô, trùm đầu che tai, đứng xúc đất giữa trời giá lạnh cả ngày, tay chân tê cóng… Tuất thiếp đi với những hình ảnh gán ghép giữa mộng và thực, giữa những công trình xây cất ở Việt Nam mà Tuất từng mê mẩn theo dõi lúc mới tới Sài Gòn, và những cảnh băng giá ở Canada.
Sáng thức dậy, Tuất chợt nhớ đến câu ca dao mà ba Tuất thường dẫn:
Người đời ai khỏi gian nan,
Gian nan có thuở thanh nhàn có khi.
Tuất hăng hái ăn vội điểm tâm rồi cất bước đến xưởng sửa xe, dự định vào lúc nghỉ ăn trưa sẽ xin phép đến nơi xin việc làm hầm mỏ.
Ăn xong cơm trưa, Tuất đi vội tới địa chỉ anh bạn Mã Lai đã cho. Thành phố nhỏ, tổng hành dinh của nhiều công ty tọa lạc quanh quẩn trong khuôn viên một vài góc phố. Tuất tìm đến địa chỉ công ty dễ dàng, nhưng trở ngại tiếng Anh thì không nhỏ. May mà gặp cô thư ký sốt sắng lại thông cảm. Tuy thủ tục rườm rà, với nhiều giấy tờ cần chữ ký của người xin việc, nhưng Tuất cứ nhắm mắt làm theo lời chỉ dẫn của cô. Sau khi trao cây viết cho Tuất, cô chỉ đâu Tuất ký tên đó. Thế là xong. Tuất đã trở thành một người thợ mỏ. Chẳng khó khăn gì, Tuất nghĩ. Cô hẹn Tuất tuần sau đến lấy vé máy bay.
Ba tuần sau Tuất đã đặt chân đến vùng khai thác mỏ Niken nằm ở phía bắc thành phố Thompson của tỉnh bang Manitoba. Chiếc máy bay nhỏ Cessna 206, loại 5 chỗ ngồi, đáp xuống một bãi đất trống cách bốn căn trại nơi công nhân hầm mỏ ở khoảng 200 thước. Hai chiếc xe tải loại một tấn (one-ton pickup truck) chờ sẵn để đón Tuất và hai anh thợ mỏ khác đi cùng chuyến bay, và đồng thời vận chuyển nhiều hàng hóa và hành lý về trại.
Tuất đến trại vào lúc 11 giờ rưỡi trưa, theo chân anh tài xế đến phòng ngủ cất vali, và trực chỉ tới văn phòng quản lý, gặp một người đàn ông trung niên có thân hình vạm vỡ, râu ria đỏ hoe che đầy mặt. Anh ta tự giới thiệu:
- Tôi là Mike.
Tuất đáp lễ:
- Tôi là Tuất.
Mike nhíu mày, nhờ Tuất lập lại. Sau ba lần như vậy, Mike đề nghị:
- Tôi sẽ gọi bạn là Toot, OK?
Tuất vui vẻ gật đầu. Mike trao cho Tuất cái tạp dề (Apron, miếng vải che phía trước thân người làm việc bếp núc):
- Bạn có thể ra phía trước ăn trưa ngay. Thường thì bạn phải ăn sớm hơn, tại vì bắt đầu từ 11 giờ 30 đã có mấy nhóm thợ thuyền kéo tới rồi.
Tuất đang thắc mắc về câu nói của Mike, thì anh đã đưa Tuất qua tận phòng ăn, gặp Tom, một thanh niên trẻ tuổi, da dẻ hồng hào, chưa nói đã cười, đang mang tạp dề đứng lóng ngóng ở đó. Mike nhờ Tom hướng dẫn Tuất trong công việc làm trước khi từ giã hai người. Tom bắt tay Tuất:
- Bạn hãy đi ăn trước. Sau đó mình còn nhiều việc phải làm.
Tuất hỏi:
- Mình sẽ làm gì vậy.
- Tôi sẽ nói cho bạn biết sau, nhưng đại khái là sau khi công nhân ăn xong mình lập tức dọn dẹp bàn. Sau đó thì vào bên trong rửa đĩa.
Tuất ngạc nhiên hỏi,
- Chừng nào mình ra chỗ mỏ.
Tom thắc mắc:
- Ra đó làm gì?
- Mình không ra đó sao?
- Không. Tôi chưa bao giờ đặt chân tới mỏ.
Tuất thắc mắc tại sao mình xin đi làm thợ mỏ mà không cho ra mỏ. Sau vài ngày quơ tay múa chân chu thêm cho ít vốn liếng tiếng Anh của mình để tra hỏi đồng nghiệp cho rõ ngọn ngành, Tuất mới vỡ lẽ là hình như mình đang làm việc cho một công ty cung cấp dịch vụ ăn uống. Mỗi ngày công ty chịu trách nhiệm lo ba bữa ăn cho các thợ hầm mỏ, và cái dốp (job) của mình là quét dọn phòng ăn và phụ rửa chén dĩa.
Uổng công lo lắng mấy đêm trời. Nếu cái dốp chỉ có vầy thì sung sướng quá, Tuất nghĩ. Quả là xứ sở của cơ hội như các đồng hương ở trại Pendleton thường nói. Lương đã tương đối cao, mà công ty lại đài thọ mọi chi phí ăn ở, đi lại. Kiểu này sau 4 tháng làm việc là mình giàu to rồi, Tuất nhẩm tính. Quả thật vậy nếu cái ý giàu ở đây là trút bỏ được phần nào gánh nặng tài chánh trong lòng Tuất để được yên tâm học hành.
Bốn tháng sau, điều đáng ngạc nhiên hơn đối với bạn bè và đồng hương quen biết Tuất là ngoài cái giàu tiền bạc, Tuất còn giàu cả tiếng Anh. Tới độ bà con phải ban cho Tuất tước hiệu 'Thằng Canada con', vì 'cứ mở miệng ra là Sorry với Thank you' (nói lời xin lỗi với tiếng cám ơn), bằng không là thường xuyên phun ra những tán thán từ người bản xứ thường dùng để bày tỏ sự bất ngờ, nỗi kinh ngạc hay sự tán dương, như 'Wow! .. Oh my God! .. Really!', mà nôm na ra là … Ôi chao! Chúa tôi ơi!, Thật vậy sao!
Các đồng hương lúc đầu thường tìm đến với nhau để được nghe tiếng Việt, được nói tiếng Việt, thì làm sao có thể luyện được tiếng Anh nhanh như Tuất. Bốn tháng trời vì hoàn cảnh Tuất phải nghe tiếng Anh và nói tiếng Anh cả ngày. Đêm về đôi khi còn chiêm bao thấy mình nói tiếng Anh. Khi tỉnh giấc, Tuất thường mỉm cười trong ý nghĩ, nếu bà ngoại Tuất biết được chắc bà sẽ đi khoe với hàng xóm 'Thằng cháu tui tối ngủ nó nằm “trên bao” cũng nói tiếng Anh nữa đó.' Dù Tuất phải học thêm bao nhiêu sinh ngữ có lẽ vẫn không thể quên được thổ ngữ đặc thù của Bà!
Số tiền dành dụm được từ chuyến đi tưởng là làm thợ mỏ đã giúp Tuất có thể ghi danh đi học toàn thời gian, chỉ cần phải làm việc thêm vào mỗi mùa hè sau khi bãi trường. Nhờ chuyên tâm học hành, chẳng mấy chốc Tuất đã lấy bằng trung học, vào trường chuyên nghiệp, và ra trường với mảnh bằng kỹ thuật chuyên về các loại máy sưởi và máy điều hòa không khí. Con đường hoạn lộ, hay chính xác hơn là 'Con đường hoạn nạn' như mấy anh lính thường chế nhạo Tuất, bắt đầu từ đó.