- Bác… bác sĩ nói vậy có nghĩa là có khả năng con tôi sẽ…

- Xin chị cứ bình tĩnh, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức! Bác sĩ trưởng khoa sẽ trực tiếp mổ cho cháu.

Có vẻ như mẹ tôi không nghe thấy bác sĩ nói gì nữa. Mẹ ngồi phịch xuống ghế và nắm chặt lấy tay tôi tấm tức khóc. Vị bác sĩ trẻ khẽ đặt tay lên vai mẹ tôi an ủi trước khi lặng lẽ rời khỏi phòng.

Buổi chiều, ba và chị Minh đến thăm tôi. Tôi có cảm giác chuyện xảy ra với tôi đã làm mọi người trong nhà trở nên gắn với nhau hơn, quan tâm đến nhau nhiều hơn. Ba lắng nghe mẹ thông báo về tình hình sức khỏe của tôi bằng vẻ mặt trang nghiêm và lặng lẽ, trong khi chị Minh thì rưng rưng chực khóc. Tôi vội lỉnh ra khỏi phòng trước khi lại thấy chị mít ướt, vì sợ mình không kìm được sẽ khóc theo mất. Tim tôi nhói đau và dạ dày co thắt rất khó chịu. Một điều rất kì lạ, bởi một linh hồn lẽ ra không thể có cảm giác đau được!



Chương 12

Để cho an toàn, lần này tôi không dám mạo hiểm đi xa nữa, nhất là khi không có Trung và bọn nhóc đi cùng. Trong suốt hai ngày trước ca mổ, tôi lang thang dọc theo các hành lang bệnh viện. Cuối cùng lấy hết can đảm, tôi dừng lại trước một căn phòng đóng cửa im ỉm ghi tên “Phòng M. Đây là căn phòng bí mật mà chỉ có các bác sĩ và y tá mới được vào. Phân vân một hồi, tôi quyết định đi xuyên qua lớp cửa. Bên trong, một ca phẫu thuật đang được tiến hành. Vốn rất sợ những cảnh máu me nên tôi chỉ dám đứng từ xa quan sát. Một ê kíp các bác sĩ mặc áo blu, đội mũ trùm đầu màu xanh lá, mặt đeo khẩu trang kín mít đang tập trung cao độ vào vị trí mà ánh đèn đang chiếu vào. Trong số đó có một bác sĩ mổ chính, số còn lại làm nhiệm vụ đưa dụng cụ khi bác sĩ yêu cầu. Cũng có một số người chỉ đứng quan sát, tôi đoán là sinh viên thực tập, bởi họ có vẻ căng thẳng hơn những người còn lại.

Một anh chàng đeo kính trắng cứ thỉnh thoảng lại dùng khăn thấm mồ hôi lã chã trên trán và hai bên thái dương. Cảnh tượng không khác mấy với những bộ phim bệnh viện mà tôi từng xem trên ti vi, chỉ có khác là cảm giác thực kinh khủng hơn rất nhiều. Tôi tự hỏi không biết làm sao mà những vị bác sĩ này có thể chịu đựng được áp lực như vậy, bởi vì chưa đầy năm phút tôi đã muốn khuỵu xuống xỉu ngay tại chỗ. Tưởng tượng đến cảnh mình sắp sửa là người nằm trên bàn mổ, tôi lạnh toát cả sống lưng. Nhưng sau đó tôi tự trấn an rằng trước khi mổ mình sẽ được tiêm thuốc mê cẩn thận. Hơn nữa, vì tôi đang ở “ngoài này” chứ không phải “trong kia”, nên đương nhiên sẽ chẳng thể cảm thấy gì hết. Rồi mọi chuyện sẽ mau chóng qua đi, cũng giống như một cơn ác mộng thôi.

Nghĩ vậy nhưng đến khi thấy chiếc cáng có mình nằm trên đó được đẩy vào phòng mổ, tôi cũng bủn rủn hết cả tay chân, đầu óc thì đông cứng trong nỗi sợ hãi cực độ. Sẽ ra sao nếu lần này tôi không chết giả nữa mà là chết thật? Khi cánh cửa phòng đóng sập lại, ngăn cách cơ thể tôi với ba mẹ và chị Minh, tôi cảm thấy mình thật đơn độc. Tôi không đủ can đảm để chứng kiến cảnh ca phẫu thuật diễn ra. Ngồi xuống ghế chờ, tôi co ro ôm lấy mẹ cho đỡ sợ, nhưng dĩ nhiên mẹ không hề biết đến điều này. Ai nấy đều chắp tay cầu nguyện cho tôi qua khỏi. Tôi cũng bắt chước, âm thầm cầu nguyện cho chính mình. Sẽ thật không công bằng nếu sau khi cho tôi trải qua niềm vui tột đ của việc biết mình còn sống, Thượng Đế lại bắt tôi một lần nữa phải lao xuống cái vực sâu hun hút của nỗi tuyệt vọng.

Từng giây từng phút trôi qua chậm chạp. Chưa bao giờ tôi thấy thời gian bị kéo giãn ra đến mức này. Không gian quanh tôi trở nên thật kì ảo. Ánh đèn, những tiếng nói vọng lại, tiếng bước chân dọc theo hành lang… những ấn tượng trở nên đậm nét và rõ ràng đến mức từng chi tiết nhỏ đều khắc sâu vào tâm trí tôi. Một con muỗi vo ve bay ngang qua và tôi có thể thấy cả cái vòi bé xíu của nó. Một giọt nước rơi từ mái hiên xuống và tôi nghe rõ tiếng độp của nó khi chạm đất. Ngay cả hơi ẩm của không khí cũng trở nên một cái gì thật riêng biệt kích thích mọi giác quan của tôi. Chắc chắn rằng nếu còn sống, sau này mỗi khi bắt gặp lại cảnh tượng tương tự, tất cả những cảm xúc trong tôi sẽ bung ra như được dốc ngược từ một cái chai, vẹn nguyên, không nhầm lẫn vào một kí ức nào khác.

- Chị Vân!

Tôi giật mình ngẩng lên khi nghe tiếng gọi. Từ trên trần nhà, Trung lao vút xuống chỗ tôi đang ngồi với v mặt hoang mang thấy rõ.

- Sao em biết chị ở đây? - Tôi hỏi dồn, phần vì mừng rỡ, phần vì linh cảm thấy có chuyện không ổn.

- Em tìm chị khắp các bệnh viện quanh đây mà không thấy! - Trung vừa thở hổn hển vừa nói. - Chị Vân, chị cứu Phương với Khôi đi, tụi nó chết mất!

- Tụi nó bị làm sao?

- Tụi nó bị lão pháp sư bắt đi rồi! Chị mà không cứu tụi nó thì em chẳng còn biết nhờ ai nữa. - Trung nói như sắp khóc.

- Em nói lại đầu đuôi cho chị nghe, em nói pháp sư nào? Mà tại sao tụi nó lại bị bắt?

- Lỗi tại em hết! - Trung tỏ vẻ ân hận. - Em bày cho tụi nó chơi trò nhát ma một nhà nọ, vì nhà đó có một ông chú rất đáng ghét chuyên bắt nạt trẻ con sống quanh đó. Ai ngờ ông chú đó sợ quá liền mời pháp sư tới trừ tà. Lúc đó em không có ở nhà, chỉ có hai đứa nó thôi. Ông pháp sư đã dùng bùa chú nhốt hai đứa nó vô mấy cái hũ phép. Nếu không cứu kịp thì sau bảy ngày tụi nó sẽ chết!

- Chết? Ý em là…

- Nghĩa là tụi nó… hích sẽ biến mất vĩnh viễn, ngay cả về Nguồn cũng không còn được nữa!

Trong phút chốc tôi quên bẵng nỗi lo của mình.

- Nhưng làm sao để cứu được tụi nó? Em có nói ông Râu Rậm biết chưa?

Trung gật đầu.

- Em báo rồi! Từ lúc đó tới giờ ông Râu Rậm và một số người khác vẫn đang luống cuống đi tìm tụi nó.

- Nếu ông Râu Rậm với những phát minh thiên tài của ổng mà còn không giúp được thì làm sao chị có thể? - Tôi tuyệt vọng hỏi.

- Chị là một linh hồn còn sống! - Trung nói tiếp. - Ông Râu Rậm nói chỉ có chị mới có thể giải thoát được hai đứa nó thôi.

- Nhưng bằng cách nào?

- Chị cần phải đến chỗ của các Tiên, họ sẽ giúp chị tìm ra nơi lão pháp sư giam giữ tụi nó.

- Khoan đã, các Tiên là ai? - Tôi ngắt lời Trung, cảm thấy sự việc đang dần rối rắm như nhện.

Hít vào một hơi dài, Trung bắt đầu giải thích bằng một giọng mạch lạc hơn.

- Các Tiên sống trong rừng Kín đó chị! Ông Râu Rậm nói họ chính là những linh hồn của khu rừng. Rừng Kín là nơi bọn bạch tuộc ma sinh sống, cho nên tụi em chẳng có đứa nào dám béng mảng đến gần. Vả lại, chỉ có những linh hồn sống như chị mới có thể gặp được các Tiên mà thôi!

- Chị hiểu rồi. Vậy em mau chỉ chị cách đến rừng Kín đi! - Tôi nói nhanh, cố tỏ ra bình tĩnh.

Dường như Trung biết tôi đang nghĩ gì.

- Chị đừng lo về bọn bạch tuộc, ông Râu Rậm đã đưa cho em thứ này, bảo là nếu tìm được chị thì trao lại cho chị để phòng thân. - Vừa nói cậu bé vừa tháo chiếc vòng đeo ở tay trái đưa cho tôi.

- Đây là gì? - Tôi nhận lấy chiếc vòng rồi đeo luôn vào tay mình để khỏi mất nhiều thời gian.

- Chiếc vòng này sẽ giúp chị tránh được bọn bạch tuộc ma, ông Râu Rậm nói vậy. Còn bằng cách nào thì… em cũng không rõ nữa!

- Không sao đâu, chị tin ông Râu Rậm mà. Giờ thì em chỉ cho chị chỗ ở của các Tiên đi!

Nói rồi tôi khẩn trương nhảy lên thảm bay, sẵn sàng xuất phát. Nỗi sợ về kết quả của ca phẫu thuật vẫn còn đó, nhưng nó đã tạm thời bị nén xuống một nơi rất sâu trong trái tim tôi. Hiện giờ tôi chỉ còn có thể tập trung vào nhiệm vụ quan trọng mà mình đang gánh vác, đó là giải cứu những người bạn nhỏ tội nghiệp. Trung cũng có vẻ lo lắng hồi hộp không kém gì tôi. Cậu ta không nói gì suốt cả quãng đường từ bệnh viện đến khu rừng Kín. Đó là một khu rừng nằm ở rìa thành phố, trên một ngọn đồi cao. Trung cho tấm thảm đáp xuống bìa rừng, từ đây có một con đường mòn dẫn vào sâu bên trong.

- Chị hãy theo hướng con đường mòn này vào rừng. Đến cuối đường, chị nhắm thẳng hướng cũ đi tiếp cho đến khi thấy một dòng suối. Lần theo dòng chảy của nó, chị sẽ đến một cái hồ rộng mọc rất nhiều hoa súng. Đó là nơi ở của các Tiên. Em… em chỉ biết đến đó thôi. Em xin lỗi vì không thể đi cùng chị được!

Vẻ lúng túng và lo lắng trên gương mặt cậu bé khiến tôi thấy mủi lòng.

- Em đừng lo! - Tôi đặt tay lên vai Trung trấn an. - Chị sẽ không sao đâu. Nhìn nè, chị đang đeo chiếc vòng phép của ông Râu Rậm, làm sao có nguy hiểm nào có thể xảy ra với chị được, đúng không?

Sự thật là tôi rất sợ khi nghĩ đến những con bạch tuộc ma đầy rẫy trong khu rừng. Chỉ cần tôi sơ sẩy một chút thôi cũng có thể mất mạng như chơi. Nhưng tôi biết lúc này mình phải tỏ ra dũng cảm, bởi bọn trẻ đang đặt hết hi vọng vào tôi. Tôi không còn lựa chọn nào khác là phải tin tưởng vào chiếc vòng hộ mệnh, phát minh của ông Râu Rậm.

- Chị hãy hứa sẽ trở lại nhé! - Vừa nói Trung vừa khịt mũi chìa ngón tay ra cho tôi.

- Ừ, chị hứa! - Tôi mỉm cười cảm động. Nhưng thay vì móc ngón tay, tôi lại dang tay ôm cậu bé vào lòng. Trông cậu thật tội nghiệp và tôi chỉ tha thiết muốn bảo vệ cho cậu.

Sau khi nhường thảm bay lại cho tôi, Trung đứng nhìn theo cho đến khi tôi vào hẳn trong rừng. Tôi ngoái đầu lại mà thấy lòng đau xót. Không hiểu tại sao một đứa trẻ mới quen như Trung lại có thể khiến tôi xúc động như vậy. Tôi liên tưởng đến chị Minh. Tôi so sánh mình là chị Minh còn cậu bé ấy tôi. Có lẽ chị Minh cũng đã từng như tôi lúc này, đã từng có những tình cảm bảo bọc đầy yêu thương dành cho đứa em gái nhỏ.

Tôi vẫn nhớ trước kia mình từng là một cô bé rất ngoan, từng đặt hết lòng tin vào chị Minh. Tôi nghe lời chị nói và làm theo bất cứ điều gì chị bảo. Chị đã từng là thần tượng trong lòng tôi vì thành tích học tập đáng nể và vì chị lúc nào cũng ra tay bảo vệ mỗi lần tôi bị bọn thằng Tèo bắt nạt. Tôi vẫn nhớ như in vẻ mặt sợ sệt buồn cười của chúng khi bị chị “dằn mặt”.

- Tụi bây mà dám đụng đến một sợi lông chân của nó là chết với chị!

Tôi không nhớ từ lúc nào chị Minh và tôi đã trở thành hai con gà chọi cứ đá nhau suốt ngày, đến nỗi không còn thèm nhìn mặt nhau nữa. Tôi cho rằng chị Minh xấu bụng hẹp hòi. Nhưng giờ nghĩ lại, phần lớn những trận cãi nhau là do thói ương bướng vô tâm của tôi. Không biết từ lúc nào, tôi cảm thấy những câu mệnh lệnh của chị thật khó chịu. Tôi có còn là con nít nữa đâu? Tôi cảm thấy như bị chị xem thường, nhất là khi thành tích học tập loại khá của tôi cứ hay bị ba mẹ đem ra so với danh hiệu học sinh xuất sắc của chị.

Từ đó tôi cảm thấy mình cần phải có một thế giới riêng, và tôi đã tự thu mình lại, xa cách với chị. Tôi không còn thủ thỉ trò chuyện với chị về đủ mọi thứ như ngày xưa nữa. Đi học về là tôi đóng cửa lại, ở trong phòng. Có lẽ đó là lý do vì sao mà tôi có cảm tưởng chị cứ suốt ngày phê bình, chê trách tôi, bởi tôi có dành thời gian để hai chị em trò chuyện và thấu hiểu nhau đâu. Nếu lần này cuộc giải phẫu thất bại, tôi sẽ mãi mãi không thể nói được điều gì với chị nữa, dẫu chỉ là một lời xin lỗi.



Chương 13

Dòng suy nghĩ của tôi bị cắt đứt khi có cái gì đó quật mạnh từ bên dưới tấm thảm, khiến cả tôi lẫn tấm thảm bị hất lên cao. Khi kịp định thần lại, tôi thấy một chiếc vòi đen nhớp nháp giơ ra chực cuốn lấy mình. Trong tích tắc, tôi kịp thời bay vút lên né tránh. Chiếc vòi quật hụt đập mạnh xuống đất một cách nặng nề, nhưng không làm tung lên một tí bụi nào. Con bạch tuộc ma phóng chiếc vòi thứ hai định tấn công tôi. Nhớ đến chiếc vòng, tôi liều mạng đưa tay đeo vòng lên đỡ. Khi mở mắt ra, tôi thấy con bạch tuộc đang giãy giụa trong một ngọn lửa cháy phừng phừng trước khi bị nướng thành than. Tôi đưa tay lên quệt mồ hôi trán, thở phào nhẹ nhõm. Nhưng rồi tôi nhận ra đó chỉ mới là thử thách bước đầu.

Từ bộ rễ của những thân cây cổ thụ, một đàn bạch tuộc có đến hàng trăm con túa ra cùng một lúc lao đến chỗ tôi. Tôi liền ra lệnh cho tấm thảm bay vút lên nhưng những cái vòi đen kịt đã nhanh hơn, tóm lấy dây ngù của tấm thảm hất tôi văng xuống đất. Tôi vừa lồm cồm bò dậy được thì đã thấy mình bị vây kín bởi vòng tròn đang khép dần của những cái đầu gớm ghiếc đầy xúc tu. Nghĩ thế nào tôi bèn giơ cánh tay có chiếc vòng lên, vừa xoay người vừa vung về phía bọn quái vật, thế là một cột lửa thoát ra từ chiếc vòng xoáy cuồn cuộn như trôn ốc. Ngọn lửa ngày một mở rộng từ tâm điểm là tôi để tạo thành một vòng tròn lửa. Vài con bạch tuộc không phản ứng kịp đã bị ngọn lửa trùm lên và thiêu rụi trong tích tắc. Những con còn lại thấy vậy vội vã co vòi chạy ra xa.

Tôi cứ xoay tròn, xoay tròn mãi như vậy cho đến khi mệt lả khuỵu xuống trên hai chân. Lúc này xung quanh tôi đã chẳng còn con bạch tuộc ma nào. Không bỏ lỡ dịp may, tôi gấp rút nhảy lên tấm thảm bay tiếp theo dấu con đường mòn nằm giữa những bụi cây và những mớ dây leo chằng chịt. Tôi không bay là là dưới mặt đất như lần trước nữa mà nâng độ cao lên gấp đôi, khiến cây cối và cành lá tha hồ đâm xuyên qua tôi chẳng khác nào như xiên que. Dù biết mình đã trở nên “trong suốt” và không có cảm giác đau nhưng theo phản xạ tự nhiên tôi vẫn cúi đầu né tránh khi thấy có nhánh cây sắp quật vào mặt. Hoàng hôn đang dần buông xuống. Tôi biết như vậy dù không xác định được vị trí của mặt trời sau lớp lá rừng ken dày, bởi tiếng côn trùng nghe mỗi lúc một rõ hơn và màu xanh của lá rừng thì mỗi lúc một thẫm hơn.

Con đường mòn tôi đi lúc này đã hoàn toàn bị bóng tối nuốt chửng. Tôi phải tìm ra chỗ ở của các Tiên càng sớm càng tốt. Cố gắng kềm chế nỗi sợ hãi, tôi ngồi im dỏng tai nghe: hình như có tiếng nước chảy ở đâu đây. Tôi nhắm mắt lại nghĩ đến một quả cầu ánh sáng, và quả nhiên khi mở mắt ra đã có một quả cầu lửa soi tỏ con đường trước mặt. Tôi cho tấm thảm bay về phía có tiếng nước chảy cho đến khi có thể đoán chắc có một con suối đang gần. Tôi cho tấm thảm bay nhanh hơn về phía nguồn nước. Cũng có lẽ vì quá phấn khích mà tôi quên mất những mối nguy hiểm đang rình rập xung quanh. Bất thình lình một cái gì đó giáng mạnh vào đầu tôi. Trước khi hoàn toàn bất tỉnh, tôi chỉ kịp nhận ra mình đang bị lôi đi xềnh xệch bởi một sức mạnh vô cùng khủng khiếp.

Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang nằm trên một chiếc thảm mượt như nhung màu xanh tím. Phía trên đầu, những cánh hoa tỏa sáng như đom đóm không ngừng rơi xuống, và khi chạm đất thì tan biến đi như những bông tuyết. Lẽ nào tôi đang ở trên thiên đường? Chẳng phải Trung đã nói nếu tôi bị bọn bạch tuộc ma ăn thịt thì sẽ mãi mãi biến mất sao? Hay kẻ đánh ngất tôi lúc đó không phải là một con bạch tuộc ma?

Tôi nhổm người dậy nhìn ra xung quanh, và lần này thì phải thốt lên kinh ngạc. Tôi nhận ra mình đang bên trong một bông hoa súng khổng lồ nổi trên mặt nước! Xung quanh tôi còn có rất nhiều những bông súng khác nữa. Khoảng trống giữa các bông hoa được lấp đầy bởi những chiếc lá tròn nhỏ như những viên gạch lát nối liền các bông hoa với nhau. “Đây là cảnh tượng tuyệt vời nhất mà mình từng thấy! Tôi tự nhủ.

- Cậu tỉnh lại rồi à? - Một giọng nói trong trẻo cất lên.

Đó là một cô gái đang bay bằng đôi cánh trên lưng, mái tóc dài thắt thành nhiều bím nhỏ xõa đến tận thắt lưng trông rất ấn tượng. Cô ta mặc một bộ áo váy tuyệt đẹp được tạo nên từ những cánh hoa.

Tôi mở to mắt ngắm nhìn cô gái như bị thôi miên. Thấy vẻ sửng sờ của tôi, cô gái mỉm cười nói.

- Cậu đừng sợ, t không làm hại đến cậu đâu!

- Tớ biết. - Tôi gật đầu. - Cậu là Tiên đúng không? Và đây chính là nơi ở của các Tiên?

Cô gái gật đầu xác nhận.

- Đúng, cậu đang vùng đất của các Tiên. Nhưng làm cách nào mà cậu biết nơi ở của bọn tớ?

- Ông Râu Rậm đã chỉ đường cho tớ. - Tôi giải thích. - Ừm, mà có thể cậu vẫn chưa biết ông Râu Rậm là ai. Tóm lại là tớ đến đây để nhờ các Tiên giải cứu các bạn tớ. Họ đã bị một pháp sư bắt nhốt vào những chiếc phép và giấu đi đâu đó mà không ai tìm thấy. Nếu không được giải cứu trong vòng bảy ngày nữa thì họ sẽ chết.

Cô bạn Tiên lắng nghe một cách chăm chú rồi gật đầu đáp.

- Thì ra là vậy! T cũng nghĩ nếu không có việc gì quan trọng thì một linh hồn sống sẽ không bao giờ dám mạo hiểm đi vào khu rừng Kín này, nhất là lại đi một mình. Lúc cậu bị bọn bạch tuộc ma lôi đi, cũng may là tớ đi hái nấm ngang qua nên bắt gặp.

- Cậu đã cứu tớ?

- Ừm, nhưng cậu không cần phải nhắc đến chuyện ấy. Tớ tên là Amiran. Còn cậu?

- Tớ là Vân. - Tôi chìa tay ra bắt tay cô bạn mới quen.

- Rất hân hạnh. - Amiran siết tay tôi mỉm cười thân thiện. - Về chuyện của cậu thì tớ nghĩ chỉ có Tiên Vua mới giúp được thôi.

- Tiên Vua ư?

- Đó là thủ lĩnh của bọn tớ. Tiên Vua rất khó tính, đặc biệt là đối với con người. Cậu biết đấy, loài người các cậu đã tàn phá rừng rậm, khiến cho linh hồn của khu rừng trở nên suy yếu. Nếu đúng theo luật thì việc tớ cứu cậu và giữ cậu ở đây cũng bị coi là có tội. Cũng may giờ này Tiên Vua và các Tiên khác đã đi thu lượm nấm và mật ong trong rừng nên không ai trông thấy.

- Sao cậu dám mạo hiểm cứu tớ? - Tôi không khỏi thắc mắc.

- Vì tớ biết không phải tất cả loài người đều xấu. Mẹ tớ kể rằng bà đã từng nhìn thấy những nhân viên kiểm lâm ra sức bảo vệ rừng và cứu giúp muông thú, chống lại bọn lâm tặc phá rừng.

- Tớ cũng yêu rừng lắm. - Tôi thật thà thú nhận, không phải để lấy lòng cô bạn mới.

- Ngay từ đầu tớ đã biết cậu là người tốt. - Cô bạn Tiên mỉm cười, một nụ cười thắp sáng cả gương mặt.

- Có thật là Tiên Vua sẽ giúp được tớ không? - Tôi vẫn chưa hết băn khoăn.

Amiran gật đầu quả quyết.

- Theo như tớ biết thì Tiên Vua là một trong số những người có địa vị cao nhất và được kính trọng nhất trong thế giới linh hồn. Quyền năng của Người là vô hạn, chắc chắn Người sẽ có thể giúp được cậu.

“Có lẽ chỉ trừ việc ngăn con người tàn phá rừng rậm ra. - Tôi thầm nhủ. Dù sao thì tôi cũng cảm thấy yên tâm hơn khi biết Tiên Vua là người có quyền năng cao nhất ở đây.

- Nhưng bằng cách nào? - Tôi hỏi.

- Tiên Vua có một vật báu là chiếc lá Thần. Chiếc lá ấy có nguồn gốc từ cây cổ thụ lâu năm nhất trong rừng. Chiếc lá này chỉ xuất hiện mỗi một trăm năm một lần, và chỉ có duy nhất một lá mà thôi. Nếu cậu sở hữu được chiếc lá Thần, cậu có thể giao tiếp với bất cứ loài cây cỏ nào trên thế giới. Bằng cách đó, cậu sẽ có thể tìm ra được nơi nhốt các bạn của mình.

- Sao cậu biết rành rẽ quá vậy? - Tôi không khỏi ngạc nhiên.

- Mẹ tớ kể rằng khoảng ba trăm năm trước đã từng có một linh hồn sống đi lạc đến đây. Cậu biết đó, thời ấy loài người vẫn còn chưa có những hành động xâm hại rừng cây và Tiên với Người vẫn còn thân thiết như anh em. Vào thời đó các Tiên còn được huấn luyện để cứu giúp con người nữa, chẳng hạn như dẫn đường cho người đi lạc, làm bạn với trẻ em, người già và giúp đỡ kẻ gặp rủi ro.

Tôi chợt nhớ đến những câu truyện cổ tích như “cây tre trăm đốt”, “Tấm Cám”, “nàng tiên ốc” mà mình đã được đọc. Thì ra những truyện ấy đều thật. Đáng tiếc là ngày nay con người không còn được diễm phúc nhìn thấy các Tiên như lúc xưa nữa.

Bỗng có tiếng vỗ cánh vù vù từ đằng xa như thể một đàn côn trùng đang bay đến.

- Các Tiên sắp về rồi đấy! - Cô bạn Tiên hắng giọng thông báo.

Cảm thấy hồi hộp thay cho Amiran, tôi hỏi.

- Liệu cậu có gặp rắc rối gì không?

Cô bạn lắc đầu.

- Cậu đừng lo, tớ sẽ giải thích với Tiên Vua và các Tiên khác, nhất định họ sẽ thông cảm cho hoàn cảnh của cậu!



Chương 14

Một lúc sau, một nhóm rất đông người có cánh lần lượt đáp xuống bông hoa to nhất ở giữa hồ. Tôi theo chân Amiran bước trên những chiếc lá súng xòe trên mặt nước để đến chỗ mọi người tụ tập. Giữa đài hoa to nhất có đặt một chiếc ngai. Ngồi trên đó là một vị Tiên trong trang phục oai nghiêm mà tôi đoán là Tiên Vua. Điều đáng ngạc nhiên là khác với trí tưởng tượng của tôi, Tiên Vua là một thiếu niên còn rất trẻ, có lẽ chỉ nhỉnh hơn tôi vài tuổi là cùng, trong khi trong số thần dân thì có nhiều người râu tóc đã bạc phơ. Các Tiên thần dân đồng loạt trút những chiếc túi đeo trên lưng xuống rất nhiều nấm đủ mọi hình dạng và những chiếc lọ chứa đầy chất lỏng màu vàng trong suốt mà tôi đoán là mật ong. Mỗi một nhóm cử một người đại diện lên làm nhiệm vụ đếm số lượng, sau đó báo cáo lại cho một ông lão có vóc người phương phi tầm thước.

- Bẩm Đức Vua, hôm nay chúng ta đã thu được tổng cộng là chín trăm ba mươi cây nấm, bao gồm hai trăm bảy mươi ba nấm rơm, ba trăm lẻ tám nấm mèo, một trăm chín mươi nấm tuyết…

Tiên Vua đưa tay lên ngắt lời ông lão, khiến tất cả mọi ánh mắt đều đổ dồn về hướng Tiên Vua đang nhìn. Tim tôi đập mạnh khi nhận ra những tia mắt ấy đang xoáy về phía mình. Không đợi Tiên Vua lên tiếng trước, Amiran đã dũng cảm bước lên và quỳ một chân xuống, đặt tay chéo qua vai.

- Đức Vua anh minh và nhân từ, xin Người thứ tội vì thần đã mạo muội dẫn người lạ đến xứ sở của chúng ta! Cô gái này đã bị một con bạch tuộc ma lôi đi trong tình trạng bất tỉnh trong rừng Kín nên thần đã cứu cô ta về đây. Thần đã hỏi han và biết cô ta tìm đến đây vì mục đích tốt: cô ta muốn giải thoát cho những người bạn của mình đang bị một pháp sư giam giữ…

Vị vua trẻ giơ tay lên ra hiệu đã nghe đủ. Lần đầu tiên Ngài cất giọng nói, một giọng trầm và âm vang.

- Ta không cần biết cô ta đến đây vì mục đích gì, nhưng luật pháp vẫn là luật pháp. Amiran, vì ngươi đã dám cả gan đưa linh hồn con người đến đây mà không có sự cho phép của ta, ngươi sẽ bị phạt giam giữ trong kén bướm đến hai tuần sau mới được thả ra. Còn kẻ lạ mặt kia thì bị trục xuất khỏi đây ngay lập tức! Lính đâu?

- Thưa Đức Vua, xin Người suy xét lại, Đức Vua anh minh! - Amiran kêu lên khi bị hai Tiên lính bay đến giữ hai bên cánh tay.

- Xin hãy dừng lại! - Vừa la lên tôi vừa lách đám đông bước đến chỗ Tiên Vua. Sự e dè của tôi đã tan biến đi đâu mất.

- Xin Đức Vua hãy hành xử cho công bằng! Nếu Amiran không cứu tôi thì giờ này tôi đã trở thành món mồi ngon cho bọn bạch tuộc ma rồi. Cậu ấy không đáng bị phạt vì một hành động nghĩa hiệp như vậy. Còn tôi đến đây cũng là vì muốn cứu các bạn của mình chứ không hề có ý xấu. Chẳng phải khi xưa các Tiên và con người luôn truyền thống gắn bó với nhau hay sao? Chẳng phải các Tiên đã luôn có thiện ý muốn giúp đỡ những người gặp hoạn nạn hay sao? Nếu Đức Vua thực sự là một vị vua anh minh thì người phải cân nhắc cả về lý và tình, chứ không thể chỉ dựa theo nguyên tắc suông như vậy được!

Amiran nhìn tôi với vẻ mặt kinh hãi. Chính tôi cũng không dám tin mình lại đủ can đảm nói ra những lời như vậy trước mặt Tiên Vua. Một vị Tiên giận dữ quát lớn.

- Hỗn xược! Ngươi nghĩ ngươi là ai mà dám ăn nói với Đức Vua bằng một giọng vô lễ như vậy?

Vị chúa tể của các Tiên nhìn tôi bằng ánh mắt lạnh lùng không biểu lộ cảm xúc. Tôi bắt đầu đánh lô tô trong bụng: không khéo chẳng những Amiran không thoát khỏi hình phạt mà cả tôi cũng chẳng cứu được bọn trẻ mất! Nhưng rồi sau một lúc, vị vua cất tiếng.

- Amiran đã nói cho ngươi biết về truyền thống của tộc Tiên chúng ta?

- Thưa không! - Tôi chối biến không muốn rước thêm họa cho cô bạn tốt bụng. - Là do trong những truyện cổ tích tôi được đọc, các vị Tiên luôn hiện ra để giúp đỡ những người gặp hoạn nạn. Như trong truyện “cây tre trăm đốt” chẳng hạn. Khi chàng thanh niên tuyệt vọng vì không tìm được cây tre nào chiều cao như tên phú hộ yêu cầu, Bụt đã hiện ra để giúp chàng nối liền một trăm đốt tre thành một. Hay như trong truyện Tấm Cám, cô Tấm ngoan hiền đã được Bụt giúp cho quần áo đẹp để đi lễ hội, nhờ đó mà nàng mới gặp được vua…

Cũng may là tôi đọc khá nhiều truyện cổ tích nên đã dẫn ra được hàng loạt ví dụ hùng hồn. Cuối cùng, tôi đi đến kết luận.

- Trong thế giới loài người, các Tiên luôn được tôn sùng và yêu mến. Tôi tin rằng các vị sẽ không bao giờ thấy con người sắp chết mà không cứu!

- Đúng như những gì ngươi đã nói. - Vị vua trẻ nói bằng một giọng ngân vang. - Nhưng đó là khi xưa, khi con người và Tiên vẫn hãy còn là bạn. Còn bây giờ, loài người đã trở nên tham lam tàn ác. Họ đã hủy hoại biết bao nhiêu khu rừng, giết chết biết bao nhiêu sinh mạng mà chẳng hề mảy may hối hận. Việc bọn bạch tuộc ma tấn công linh hồn con người cũng chính là hậu quả mà các người tự chuốc lấy. Ngươi nói đúng, chúng ta đã từng cứu giúp con người, nhưng loài người các ngươi không còn xứng đáng nhận được sự giúp đỡ ấy nữa!

- Xin Người đừng quy hết tội lỗi cho toàn thể nhân loại chỉ vì một số ít người xấu! - Tôi đáp lại bằng một giọng quả quyết không kém khiến chính mình cũng phải ngạc nhiên. - Trên thế giới vẫn còn rất nhiều người muốn bảo vệ rừng rậm trồng thêm những khu rừng mới. Tôi đã từng tham gia phong trào “trồng cây gây rừng” cùng các bạn mình và đã tận mắt chứng kiến sự nhiệt tình của họ.

Gương mặt từ nãy đến giờ vẫn không biểu lộ cảm xúc của Tiên Vua chợt thoáng một nét cười mà tôi không dám chắc là hàm ý mỉa mai hay khen ngợi.

- Ngươi nói các Tiên chỉ giúp đỡ những người tốt, điều đó rất đúng! Thôi được, ta có thể phá lệ một lần, nếu ngươi cho ta bằng chứng rằng ngươi là một người tốt.

- Nhưng bằng cách nào , thưa Đức Vua? - Tôi hỏi lại.

- Nếu ngươi có thể vượt qua thử thách mà ta đưa ra, ta sẽ sẵn sàng giúp các bạn của ngươi!

Tôi bắt đầu thấy lo cho sự to gan của mình. Không biết ông vua này sắp nghĩ ra kiểu đánh đố nào đây. Gương mặt thiếu niên của ông ta trái ngược hoàn toàn với cái quyền lực đáng sợ mà ông ta nắm giữ, một kiểu trái ngược khiến tôi hết sức băn khoăn. Tôi cũng có một ông anh họ năm nay mười bảy tuổi, nên cũng chẳng còn lạ gì với những trò oái oăm không đỡ nổi của bọn con trai. Liệu ông vua trẻ này có cố tình gây khó dễ cho tôi không đây?

- Nếu tôi vượt qua được thử thách của Ngài thì Ngài cũng sẽ hứa không phạt Amiran nữa chứ?

Vị Tiên Vua gật đầu.

- Từ giờ cho đến khi ngươi hoàn thành thử thách, Amiran sẽ vẫn được tự do.

- Cậu đừng lo cho tớ! - Amiran quay sang tôi nói nhỏ. - Hãy tập trung tinh thần để vượt qua thử thách của Ngài. Nên nhớ, dù cho có bất cứ chuyện gì xảy ra, cậu cũng phải luôn lắng nghe tiếng nói từ trái tim mình. Cậu là một người tốt thực sự, tớ tin rằng cậu sẽ chiến thắng!

- Mình sẽ nhớ lời cậu dặn, sẽ cố gắng hết sức! - Tôi gật đầu. Dù lo sợ nhưng tôi bỗng thấy mình mạnh mẽ hơn. Tôi tự hứa rằng sẽ không thể để thua bất cứ một thử thách nào cho dù có khó khăn đến mấy, bởi nhiệm vụ của tôi bây giờ không chỉ có cứu Khôi Phương, mà còn giúp Amiran thoát khỏi hình phạt nữa.



Chương 15

Tiên Vua khoan thai bước xuống chiếc ngai và tiến đến gần tôi, trong khi những người khác chăm chú quan sát. “Ông ta” đặt tay lên đầu tôi, khiến tôi thấy quang cảnh xung quanh mờ dần và xáo trộn như bị quay trong một cái phễu nước. Khi tất cả đột ngột dừng lại, những vị Tiên, kể cả Tiên Vua và Amiran đã biến mất từ lúc nào. Tôi giật mình vì luồng hơi nóng khủng khiếp như lò lửa đang cuồn cuộn đốt cháy da. Trên đầu tôi lúc này là một vầng mặt trời nóng rẫy như một quả cầu dung nham chỉ chực buông thứ chất lỏng chết người của nó xuống mặt đất bất cứ lúc nào. Tôi nhảy nhổm như giẫm trên than hồng dù mang dép. Xung quanh tôi không một bóng người hay ngọn cỏ nào, chỉ toàn cát là cát. Tôi đang đứng ở giữa một sa mạc mênh mông, phía trước mặt trải ra những đụn cát nhấp nhô ngoằn nghoèo tựa hồ một đàn rắn khổng lồ đang bò đi. Điều an ủi duy nhất đối với tôi là bộ trang phục Ả Rập mà tôi đang mặc và một bình nước bằng da đeo trên vai. Bộ trang phục che phủ hầu hết mọi phần da trên cơ thể tôi, giúp tôi tránh được ánh nắng, còn bình nước thì giữ cho tôi khỏi bị chết khát.

Tôi tự trấn an mình rằng đây chỉ là một thử thách của Tiên Vua. Có lẽ “ông ấy” muốn tôi một mình băng qua sa mạc. Nhưng biết đi đường nào bây giờ? Ánh nắng gay gắt làm mồ hôi tôi túa ra như tắm. Nếu không nhanh chóng thoát khỏi chỗ này, tôi sẽ nhanh chóng khô quắt lại vì thiếu nước. Ai bảo rằng một linh hồn không thể cảm thấy gì? Loay hoay một hồi, tôi quyết định nhắm thẳng cồn cát trước mặt bước tới bởi đó là nơi duy nhất có bóng râm, do ánh mặt trời chiếu chếch nghiêng về một phía. Hơn nữa, nhìn về phía ấy có thể thấy những vết gì đó nối tiếp nhau như dấu chân người. Thoạt tiên cồn cát trông có vẻ gần, nhưng khi bắt đầu cuộc hành trình tôi mới nhận ra mình đang ở xa đến mức nào. Dường như tôi cứ đi mãi, đi hoài mà khoảng cách giữa tôi với cái bóng râm mời gọi ấy vẫn chẳng hề được rút ngắn. Mấy lần tôi đã phải dừng lại nghỉ chân và uống nước. Tôi cố hết sức tiết kiệm nước trong bình, chỉ dám hớp mỗi lần một ngụm nhỏ, bởi tôi không thể biết được mình sẽ còn phải đi bao xa.

Ngoài ra để tiết kiệm sức lực, tôi phải tính đến cả những bước chân của mình. Tôi bước những bước vừa phải không quá nhanh cũng không quá chậm, trong khi đầu cúi thấp xuống để tránh những tia nhìn tàn nhẫn của mặt trời. Thỉnh thoảng tôi cũng phải đưa tay gạt bớt mồ hôi chảy thành dòng trên trán và sống mũi. Những giọt mồ hôi ấy khi chạm đất liền bốc hơi xèo xèo trước khi biến mất không để lại dấu vết nào. Tôi cứ cắm cúi bước như vậy, cố gắng không nghĩ đến cái nóng và sự kéo giãn vô tận của thời gian. Chợt tôi nhận ra những vết đều đặn trên cát mà tôi đã thấy quả thực là dấu chân người, và có thể đoán được người ấy cũng chỉ đi một mình như tôi. Dù sao thì có thêm một bạn đồng hành vẫn tốt hơn. Có thể đây là cách mà các Tiên dẫn đường cho tôi chăng?

Cuối cùng tôi cũng đến được chỗ bóng râm của cồn cát. Nhìn thấy một tấm bạt trắng trải sẵn trên mặt đất, tôi ngồi phịch xuống thở dốc như một vận động viên marathon vừa chạm đến vạch đích. Nhưng rồi một cảm giác mềm mềm và tiếng á bật lên cùng lúc khiến tôi giật mình ngã lăn. Tôi chống tay trên cát ngơ ra nhìn. Một người đàn ông vội vã chui ra từ bên dưới tấm vải trắng. Ông ta mặc trang phục Ả Rập, có khuôn mặt dài và hàm râu quai nón hơi giống ông Râu Rậm tuy là không rậm bằng.

- Nhóc con, mắt mũi để đâu vậy hả? - Người đàn ông giơ hai tay lên đầu ra vẻ bực bội. - Không thấy ta nằm bên dưới hay sao mà dám ngồi lên?

- Dạ… cháu xin lỗi! - Tôi lí nhí đáp. - Vì mệt quá nên cháu không kịp để ý… À, chú cho cháu hỏi, ở đây là đâu ạ?

Ông chú nhíu mày quan sát tôi từ đầu đến chân.

- Sa mạc Ánh Trăng. - Cuối cùng ông ta cũng trả lời, nhưng bằng một giọng ngờ vực. - Lạ thật, nhóc con đã đến tận đây lẽ nào lại không biết nơi đây là đâu?

- Vậy chú có biết đường ra khỏi đây không ạ? - Tôi vội đổi chủ đề.

- Đương nhiên là ta biết! - Người đàn ông giữ giọng hằn học. - Nhưng điều quan trọng bây giờ không phải là biết đường ra hay không, mà là liệu có đến được nơi đó hay không.

- Ý chú là…

- Từ đây đến ốc đảo Hi Vọng ít nhất cũng mất hai ngày đường, trong khi lương thực và nước uống thì đều đã cạn kiệt.

Sau một giây lưỡng lự, tôi quyết định chia cho người lữ khách phần nước ít ỏi của mình.

- Cháu có mang theo nước đây ạ. - Tôi chỉ vào chiếc túi da đang đeo. - Tuy không nhiều lắm nhưng nếu tiết kiệm có lẽ cũng đủ cho chú và cháu trong hai ngày đấy!

Tuy ngoài mặt tỏ ra lạc quan nhưng khi nghĩ đến lượng nước dự trữ chỉ còn hơn phân nửa trong bình, tôi vẫn không khỏi băn khoăn. Tôi cố gắng tự trấn an. “Mình chỉ cần uống ít hơn một chút, rồi sẽ cầm cự được.”

Người đàn ông mặc trang phục Ả Rập hết nhìn tôi rồi lại nhìn chằm chằm vào bình nước tôi đang mang theo. Trong một thoáng tôi ngờ rằng ông ta muốn cướp mất bình nước và bỏ tôi lại một mình, nhưng ngay lập tức tôi phải đỏ mặt xấu hổ khi nghe ông ta nói.

- Ta xem ra nhóc không phải là người quen sống trong sa mạc. Với lượng nước chừng ấy, nếu chỉ đủ cho mình nhóc trong hai ngày cũng đã may lắm rồi đấy. Thôi, nhóc đừng quấy rầy ta nữa, ta phải giữ sức để đêm xuống còn lên đường. - Vừa nói người đàn ông vừa nằm xuống chỗ cát lõm ban nãy rồi phủ tấm vải lên che kín cả người.

Im lặng vài giây, tôi hỏi.

- Ốc đảo mà chú nói nằm ở hướng nào ạ? À, mà chú tên gì ạ?

Không có tiếng trả lời. Tôi bắt đầu thấy sốt ruột. Nếu không lên đường ngay bây giờ thì biết bao giờ mới đến nơi? Nhưng nếu đi một mình mà không biết phương hướng thì còn dễ chết hơn. Không biết ông chú này đang nghĩ gì. Dù sao thì ông ta có vẻ là người quen sống ở đây, có lẽ tốt nhất là nên ở lại với ông ta. Nghĩ vậy, tôi ngồi xuống dựa lưng vào cồn cát nhìn ra sa mạc mênh mông, thử đoán xem Tiên Vua muốn thử thách mình như thế nào. Có lẽ Ngài muốn tôi đồng hành cùng ông chú khó chịu này, và muốn biết xem tôi có thể vượt qua những khó khăn trên đường đến ốc đảo hay không. Suy nghĩ một lúc, tôi bắt thấy buồn ngủ và thiếp đi lúc nào không hay.

Ngủ được chưa bao lâu, tôi bị đánh thức dậy bởi cảm giác nóng rát trên mặt. Nhổm dậy, tôi nhận ra cái bóng râm lý tưởng đã biến mất tự lúc nào, còn mặt trời thì đã treo giữa đỉnh đầu. Giờ thì tôi đã hiểu tại sao ông chú kia lại phải phủ vải che kín người như vậy. Thế là tôi bắt đầu dùng một trong số nhiều lớp vải khoác trên người trùm lên che mặt. Tuy làm vậy không đỡ nóng hơn bao nhiêu, nhưng ít ra tôi cũng sẽ không bị quay chín bởi những tia lửa hừng hực của mặt trời. Khi ông chú đánh thức tôi dậy thì quang cảnh xung quanh chỉ còn thấy lờ mờ. Tôi vội uống một ngụm nước để xoa dịu cuống họng khô ran rồi đưa chiếc bình cho ông chú. Ông ta ngần ngại một lúc rồi cũng chịu hớp một ngụm nhỏ trước khi cảm ơn tôi. Khả năng chịu khát của ông ta thật đáng khâm phục!” Tôi nghĩ.

- Đến lúc lên đường rồi! - Vừa nói ông chú vừa phủi cát đứng dậy.

Tôi đóng nắp chiếc bình chỉ còn lưng một ít rồi vội vã bước theo ông ta, lòng khấp khởi mừng rằng ông ta đã chịu nhận mình làm bạn đồng hành. Hơi nóng tích tụ ban ngày còn váng vất trong không khí chẳng bao lâu đã bị những làn hơi lạnh từ trên cao sà xuống hòa tan, mang lại cảm giác mát mẻ thật dễ chịu. Đúng là so với ban ngày thì lúc trời nhá nhem thế này di chuyển dễ dàng hơn rất nhiều. Tôi sung sướng thấy chân mình lướt đi như bay (chủ yếu là vì phải đi cho nhanh để đuổi kịp ông bạn đồng hành), và tự nhủ chẳng mấy chốc cả hai sẽ đến ốc đảo ngay thôi.

- Cẩn thận kẻo đạp phải rắn và bò cạp đấy! - Người lữ khách vừa sải những bước dài vừa lên tiếng nhắc.

Tôi rùng mình tưởng tượng rằng từ dưới cát, một cái đầu rắn chuông hoặc một cái đuôi bò cạp có thể đột ngột nhô lên bất cứ lúc nào. Suốt từ đó tôi cứ cắm đầu nhìn xuống đất và cố gắng bước thật cẩn thận. Như cố tình làm cho tôi bất an hơn, ông chú nói thêm.

- Nhớ phải luôn bám sát theo ta, nếu lỡ sụt xuống cát lún thì ta không rảnh để cứu lên đâu!

Sa mạc ban đêm quả là đáng sợ. Khi ánh mặt trời cuối cùng đã tắt hẳn sau đường chân trời và bóng đêm chụp xuống, tôi không còn nhìn rõ được cái gì ở dưới chân mình nữa. Những làn gió trở nên lạnh căm căm, cho đến lúc tôi phải liên tục xoa hai khuỷu tay cho ấm hơn. Mấy lần tôi định bắt chuyện nhưng người bạn đồng hành bất đắc dĩ của tôi vẫn im thin thít, cảm tưởng như ông ta đang dồn hết sự tập trung vào những bước chân và đoạn đường trước mặt. Thỉnh thoảng hiếm hoi lắm mới bắt gặp bóng dáng một cái cây, ông chú bèn dừng lại bẻ một vài cành khô rồi cột thành bó mang theo. Thấy vậy tôi cũng bắt chước làm theo mà không hỏi han gì.

Tôi không biết chúng tôi đã đi như thế trong bao lâu, cho đến khi cả hai đều kiệt sức khuỵu xuống cát. Như lần trước, sau khi uống một ít nước tôi lại chìa chiếc bình cho ông chú, và cũng như lần trước, ông ta nhận lấy. Trong khi tôi ngồi nghỉ mệt thì ông chú đã nhặt được rất nhiều đá cuội ở xung quanh. Tôi lặng lẽ quan sát ông ta. Một lát sau, một cái hố nông được viền bằng những viên đá được dựng lên. Ở giữa hố xếp đầy vỏ của những cành cây khô. Tiếp theo, người đàn ông lấy ra từ chiếc túi bên trong áo hai viên đá nhẵn nhụi trông như hai quả trứng, rồi vừa ghé sát chúng vào mớ vỏ cây vừa đập mạnh vào nhau. Sau vài lần không thành công, cuối cùng vỏ cây cũng bắt đầu ngún lửa và bốc cháy. Tôi vội dịch người lại gần đống lửa để hơ đôi tay lạnh giá. Từ nãy đến giờ hai hàm răng tôi cứ đánh vào nhau lập cập hệt như đang ở giữa mùa đông tuyết phủ.

- Ta tên là Ali, còn nhóc? - Ngồi chống tay thoải mái ra sau lưng, ông chú đột nhiên mở lời.

- Dạ, cháu tên Vân. - Tôi đáp, không khỏi ngạc nhiên trước sự thân thiện bất ngờ của người bạn đồng hành.

- Nhóc làm sao mà đến được đây?

- Ơ… chuyện dài lắm ạ - Tôi bối rối, không biết nên kể từ đâu, mà kể xong không biết ông ta có nghĩ tôi bịa chuyện không. - Hay chú kể chuyện của chú trước đi, vì sao chú bị lạc một mình tới đây?

- Ta không bị lạc. - Ông chú nhún vai chỉnh lại. - Ta đi cùng với một đoàn tùy tùng với đầy đủ lương thực và nước uống, nhưng tất cả đều đã bị bọn cướp cuỗm sạch mất rồi!

- Những người tùy… tùy tùng gì đó của chú còn sống không ạ?

- Họ đã bị bọn cướp bắt làm con tin rồi, chỉ có ta là trốn thoát.

Tôi thầm nghĩ ở xứ sở ban ngày thì nóng như thiêu còn ban đêm thì lạnh cắt da cắt thịt này, bị bọn cướp bắt làm con tin có khi lại là một điều may vì ít ra chúng sẽ cho con tin thức ăn và nước uống. Nghĩ đến đấy tôi mới nhận ra là nãy giờ bụng mình đang đói cồn cào. Thật lạ là ở nơi này một linh hồn như tôi cũng cảm thấy nóng lạnh, no đói như một người bình thường.

- ...hồ đầy nước và cây cối xanh tươi - Giọng ông chú đang sôi nổi. - Ốc đảo Hi Vọng là vùng đất trù phú, nơi bạc vàng tuôn ra như suối nhưng tất cả mọi người đều sống rất giản dị thân ái, và đặc biệt là họ không bao giờ nói dối. Đối với họ, tội nói dối là một tội nặng và sẽ bị trừng trị thật nghiêm khắc.

Tôi nhận ra chú Ali đang nói về ốc đảo mà chúng tôi đang hướng đến.

- Nếu lỡ nói dối thì sẽ bị sao ạ? - Tôi thắc mắc.

- Thì sẽ bị đem treo cổ chứ còn sao nữa. - Ali bình thản đáp.

- Eo ơi! - Tôi nhăn mặt, tự nhủ rằng khi đến ốc đảo Hi Vọng, tôi phải cố tỏ ra cho mọi người thấy rằng mình là người chân thật nhất thế giới.

Chúng tôi nằm ngủ cạnh đống lửa để giữ ấm cơ thể, nhưng tôi hầu như không chợp mắt được chút nào cho đến lúc gần sáng, vì mặc cho những lớp áo trùm kín người, cái lạnh khủng khiếp vẫn châm chích da thịt khiến toàn thân tôi run lên bần bật. Trời vừa hửng sáng, Ali đã đánh thức tôi dậy để tiếp tục lên đường. Tay chân tôi mỏi nhừ nên việc trở dậy cũng hết sức khó khăn. Đó là còn chưa kể cơn buồn ngủ vẫn còn đeo bám cứ làm tôi phải ngoác miệng ra ngáp liên tục. Tôi ghen tị nhìn những bước chân nhanh nhẹn của ông chú Ali, cảm tưởng như ông ta không hề biết mệt là gì. Đúng là người quen sống ở sa mạc có khác! Khi trời sáng lên, cái lạnh dần dần được xua tan và bóng dáng của sự sống cũng dần xuất hiện. Thỉnh thoảng chúng tôi lại đi ngang qua một bụi xương rồng lấm tấm gai nhọn, hoặc những cụm cây cao xòe tán rộng mà tôi nghĩ là cây chà là.

Đến trưa chúng tôi dừng chân dưới bóng mát của một cái cây. Đang ngồi nghỉ, chợt Ali dùng tay ra hiệu cho tôi né sang một bên. Tim tôi lịm đi khi thấy từ dưới lớp cát động đậy, một con rắn sa mạc có đốm vừa ngóc đầu lên. Nhanh như cắt, Ali nhặt một cành khô gần đó, nhử cho con rắn bò lên trước khi dùng một hòn đá to đập chết nó. Tiếp theo, người đàn ông rút từ trong túi áo ra một con dao nhỏ, cắt đầu con rắn chôn xuống dưới cát, trong khi giải thích rằng phải làm vậy vì nọc rắn chết vẫn có thể giết chết người.

Buổi chiều, Ali dùng lửa nướng thịt rắn và chia cho tôi một phần. Ăn xong tôi chia cho Ali một ít nước của mình. Thịt rắn nướng tạm thời giúp chúng tôi quên đi cái đói, nhưng lượng nước trong bình đã hoàn toàn cạn sạch, mặc cho tôi đã cố gắng tiết kiệm đến giọt cuối cùng.

- Chú Ali, chú có chắc là trưa mai chúng ta sẽ đến nơi được không? - Tôi hỏi với giọng lo lắng.

Ali vừa hất cát phủ lên đống lửa vừa gật đầu.

- Nếu chúng ta không gặp bão cát hoặc sự cố gì bất thường.

So với đêm hôm trước thì đêm nay trời bớt lạnh hơn. Hoặc cũng có thể do tôi đã quen với sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm nên mới cảm thấy như vậy. Chú Ali và tôi nói chuyện ít hơn, chủ yếu dồn sức vào đôi chân để bước đi cho nhanh. Sự yên tĩnh ấy cho tôi nhiều thời gian để suy nghĩ. Tôi nghĩ đến nỗi sợ hãi của hai đứa trẻ đang bị nhốt trong hũ phép. Ước muốn giải cứu chúng khiến tôi thêm mạnh mẽ, nhưng đồng thời tôi cũng rất sợ cơ thể mình sẽ không chịu đựng nổi. Tôi nghĩ đến ba mẹ và chị Minh, tim tôi giật thót lên khi nhớ đến ca phẫu thuật bệnh viện. Hi vọng là ca phẫu thuật thành công, chứ nếu không thì mọi cố gắng của tôi sẽ biến thành công cốc hết.

Chúng tôi cứ đi như vậy cho đến sáng. Khi cơn khát hoành hành dữ dội kéo tôi trở về với thực tại, ngay cả Ali cũng đã có dấu hiệu kiệt sức. Chú ấy bước đi chậm hơn, và hơi thở cũng nặng nhọc hơn. Thời điểm ánh nắng ban ngày bắt đầu trở nên gay gắt, chúng tôi dừng lại nghỉ chân và sửa soạn nơi trú ẩn dưới bóng của một bụi chà là. Người tôi bỗng nóng ran như lên cơn sốt, và hơi thở như muốn đốt cháy hai lỗ mũi. Tôi thấy hoa mắt, tim đập nhanh và tay chân yếu đi.

- Này nhóc, có sao không? - Ali quay sang hỏi tôi.